tag:blogger.com,1999:blog-76363411928781652512024-02-08T03:32:39.880-08:00CHIẾN TRANH LẠNH : NGA TAU VA VIET CONG GIET NGUOI VIET NAMCong San Nga Tau xui duc va cuong buc Ho chi Minh chia doi nuoc Viet de gay chien tranh Nam Bac VN hon 20 nam truong han nham tieu thu kho vu khi cua chien tranh lanh cua chungVIET NAM QUE HUONG TOIhttp://www.blogger.com/profile/17768876020603625276noreply@blogger.comBlogger30125tag:blogger.com,1999:blog-7636341192878165251.post-54671562250805782082010-09-19T02:47:00.000-07:002010-09-19T03:13:58.010-07:00SU THAT CHIEN TRANH NAM BAC VIET NAM THEO SU DIEU KHIEN CUA NGA VA TAU CONGNGAY QUOC HAN, 60 NAM NHIN LAI<br />LE THANH NHAN<br /><br />NGA TAU VA ANH PHAP CHIA DOI NUOC VIET NAM,<br />NGA TAU VIEN TRO VU KHI VA LUONG THUC CHO CONG SAN BAC VIET,<br />NGA TAU HUAN LUYEN QUAN DOI VIET CONG NHAM KHIEU KHICH VA GAY HAN THU NAM BAC VIET NAM,<br />VIET CONG SU DUNG CHIEN TRANH DU KICH TAI MIEN NAM: AM SAT, PHAO KICH, GAI MIN, CHAT NO KHAP MOI NOI KEO DAI HANG CHUC NAM<br />VIET CONG DEM HANG CHUC SU DOAN TAN CONG MIEN NAM HANG CHUC NAM<br />TAT CA DEU THEO MENH LENH CUA NGA TAU<br />MY RUT KHOI NAM VN, DOI LAI NGA RUT KHOI TRUNG DONG<br />4-75, VIET CONG CHIEM MIEN NAM, GAY CAI CHET CHO HON 3 TRIEU DONG BAO VA GIET THEM GAN 200000 TU BINH MIEN NAM.<br />CUOI CUNG NGA TAU TRANH CHAP NHAU: VIET CONG THEO NGA, POLPOT THAO TAU, 2 TEN TAY SAI GIET NHAU GAN 10 NAM NUA, CHET BAO NHIEU BO DOI? CHET TU 100 DEN 300 NGAN THAN NIEN NAM BAC VN, CUT CHAN 50 NGAN VI MIN COC CUA TAU CONG. THUA THANG BON TAY SAI VC VANG LOI <br /> LIEN XO NHAY QUA THAI LAN 60 CAY SO,VUA CHIEM DAT VUA CUOP CUA. THAI LAN THA 100 TRAI BOM HOI NGAT, BO DOI VC CHET SACH HON 10 SU DOAN, XAC CHET BO DOI VC DUA VE BATTAMBANG CUA CAM BOT DUOC XEP HANG NHU PHOI CA KHO, VC DUNG XE UI DAT DO LEN MOT LOP MONG 1 TAC.<br />TOI AC CUA VC DA GIET NHIEU DAN VIET QUA NEN CHUNG CHUN TAY, BAY GIO CHI CAN CUOP THAT NHIEU CUA CAI ROI TRON SANG TU BAN VA SAM HOI TRONG NHA CHUA DI LA THUONG SACH, DU CHO BON TAU CONG DANG TRAN VAO TRONG NUOC, GIET NGU DAN TRAN BIEN, LAY DAT BIEN GIOI, DOI NO LUA GAO, VANG BAC, GO QUY, LAM HAI SAN, LAO NO VA GAI DEP NUA...<br /><br /><br /><br />Nhân Ngày Quốc Hận năm nay, đa số đều chỉ “nhìn lại 35 năm” thôi. Mặc dù tôi không phải là một sử gia hay môt chính trị gia, tôi cho là không đúng vì đã bỏ sót một giai đoạn lịch sử quan trọng chứa đựng những hi sinh to lớn của những chiến sĩ Quốc gia đấu tranh chống lại các thế lực quốc tế để giành lại độc lập cho Dân tộc trong và sau Đệ nhị Thế chiến. Tôi chỉ là một “thất phu” đã tận mắt chứng kiến cuộc nổi trôi của vận Nước qua 7 chế độ ở VN từ 1945 đến 1975. Chính mắt tôi đã bao lần nhìn thấy cảnh quê hương bị tàn phá, đồng bào bị đàn áp, khủng bố, tù đày, giết hại. Chính tôi cũng từng trải qua 10 năm trong ngục tù CS. Tôi muốn ghi lại dưới đây cho những ai không được trực tiếp chứng kiến như tôi. <br />I- KHỞI ĐẦU CUỘC CHIẾN QUỐC CỘNG: 1945<br />1- Phía Cộng sản: do Hồ Chí Minh cầm đầu, tuân hành chỉ thị của CS quốc tế do Liên xô và Trung Cộng lãnh đạo, chủ trương chuyên chính vô sản và đặt quyền lợi giai cấp vô sản (đảng CS) trên quyền lợi Dân tộc.<br />2- Phía Quốc gia: gồm các chánh đảng, lực lượng yêu nước theo chủ nghĩa “dân tộc” (nationalism) và nguyên tắc dân chủ tự do kiểu Tây phương (phần lớn dựa vào bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của cuộc Cách mạng 1789 của Pháp, đã được LHQ biến thành Tuyên ngôn Nhân quyền Quốc tế).<br />Hãy nói rõ thêm về chữ “quốc gia”. Chữ “quốc gia” không được nhiều người hiểu rõ, nhứt là các thế hệ trẻ. Lịch sử của chữ đó bắt nguồn từ chữ “Etat du Vietnam” = Quốc gia Việt Nam, mà nước Pháp nhìn nhận độc lập sau Đệ nhị Thế chiến. Những người chống lại Việt Minh và Cộng sản quốc tế của HCM đều theo về phía chánh phủ Quốc gia. Sau tháng 12-1946 thì “chánh phủ VN Dân chủ Cộng hòa” của HCM bị đánh chạy về biên giới Việt Trung. Cuộc chiến Quốc Cộng khởi đầu từ đó và kéo dài đến ngày hôm nay.<br />Ý nghĩa chính trị của từ ngữ “người quốc gia” là “người theo chủ nghĩa dân tộc”, vì chữ nationalism hay nationalist là do chữ gốc nation=dân tộc mà ra, đối lập với “người theo chủ nghĩa quốc tế Cộng sản” (internationalism). Người theo “chủ nghĩa dân tộc” hay “người Quốc gia” thì đặt quyền lợi của dân tộc mình và quốc gia mình lên trên hết. Còn người theo Cộng sản quốc tế thì sẵn sàng hi sinh quyền lợi tổ quốc mình để phục vụ quyền lợi của các đảng Cộng sản quốc tế như Trung Cộng, Liên Xô. Người Quốc gia không thể bán rẻ Đất nước mình cho ngoại bang. Hiểm họa Việt cộng bán rẻ quyền lợi Đất nước cho Nga cộng và Tàu cộng không cần phải đợi đến ngày hôm nay mới biết được, mà đã bắt đầu từ ngày HCM gia nhập đảng CS ở Pháp (1920). Vậy, câu chuyện HCM có công giành độc lập cho Đất nước (như đảng CSVN tuyên truyền) chỉ là một huyền thoại để lừa bịp mọi người mà thôi. Cái gọi là “Tư tưởng HCM” mà đảng CSVN đang đề cao để thay thế chủ nghĩa Marxist và Leninist bị nhân loại vứt vào sọt rác của lịch sử, thực chất là loại tư tưởng vọng ngoại, bán nước, phản dân tộc. Việc đảng CSVN đã dâng đất, dâng biển Việt Nam cho Trung Cộng ngày nay đã là một thực tế không còn chối cãi gì được nữa. Hàng chục ngàn đảng viên thực tâm yêu nước từng bị HCM lừa gạt đã xé thẻ đảng sau khi nhận biết sự thật nầy. Hiện tượng nầy mỗi ngày càng lan rộng sẽ đưa đảng CSVN đến chỗ tan rã. “Đảng CSVN có thể lừa gạt một nười, hai người... một ngàn người, chớ không thể lừa gạt tất cả mọi người. Đảng CSVN có thể lừa gạt một lần, hai lần… một ngàn lần, chứ không thể lừa gạt người ta mãi mãi”(dựa theo một danh ngôn của TT Lincoln)<br />Do không hiểu thấu đáo ý nghĩa của chữ “quốc gia” nên nhiều tổ chức đấu tranh của người Việt Quốc gia đã dùng những danh xưng lệch lạc như “người Việt Tự do”, “người Việt Tỵ nạn”... Cũng y như vậy, nhóm chữ “Cờ Quốc gia” bao hàm đầy đủ ý nghĩa hơn nhóm chữ “Cờ VNCH”. Còn các chữ “Cờ Việt Nam Tự do” và “Liên minh Việt Nam Tự do” thì hoàn toàn vô nghĩa.<br />II- CÔNG CUỘC CHIẾN ĐẤU GIÀNH ĐỘC LẬP VÀ TỰ CHỦ CỦA NGƯỜI VIỆT QUỐC GIA <br />Sách sử của CSVN lừa bịp mọi người và viết: Việt Nam được độc lập từ 2-9-1945 nhờ công lao của HCM và đảng CSVN. Sau đây là các sự kiện lịch sử mà chính người viết cũng đã tận mắt chứng kiến:<br />1- Sau khi đảo chánh Pháp đêm mồng 9-3-1945, Nhựt trao độc lập ngay cho Việt Nam lần đầu tiên với Chánh phủ Trần Trọng Kim. Lá cờ Quốc gia màu vàng được khai sinh từ đây (Cờ Quẻ Ly). Nếu Nhựt không thất trận thì cuộc diện thế giới ngày nay ắt đã khác.<br />2- Sau khi trở lại Đông Dương, Pháp công nhận VN độc lập trong Liên hiệp Pháp: Chánh phủ Quốc gia được tái lập cũng với Quốc trưởng Bảo Đại như thời Chánh phủ Trần Trọng Kim. Chánh phủ Quốc gia tồn tại từ 1948 đến 1955 rồi chuyển sang Đệ I Cộng hòa, chấm dứt chế độ quân chủ. Cờ Quốc gia có nền Vàng và 3 Sọc đỏ từ đó (1948) đến nay. <br />3- Đệ I và đệ II Cộng hòa (1955-1975). Quân dân Miền Nam đã chiến đấu vô cùng anh dũng để bảo vệ nền độc lập của Việt Nam trước âm mưu cướp nước ta của Nga, Tàu qua tay sai của chúng là CSVN. Hơn 200,000 chiến sĩ Quốc gia đã hy sinh để bảo vệ Tổ quốc, cọng với cả triệu đồng bào vô tội. Con cháu chúng ta hãy nhìn cho thật kỹ sự thật hôm nay: tập đoàn CS HCM là Việt gian đang bán Nước cho Tàu, hay phía Việt Nam Quốc gia bán Nước?<br />Trên đây là chưa kể thời kỳ từ 1862 đến 1945 với nhiều phong trào “dân tộc” (Quốc gia) yêu nước đã nổi lên chống Pháp trước và sau khi đảng CSVN được khai sinh (1930), trong đó Việt Nam Quôc dân đảng là thí dụ điển hình nhứt. Trong suốt hơn 4000 năm, dân tộc ta đâu cần có đảng CSVN mới đánh đuổi được ngoại xâm. Trái lại, đảng CSVN đã cõng rắn Trung Cộng vào nhà cướp nước, hại dân chúng ta hôm nay. Sự chia rẽ Quốc Cộng do đảng CSVN tạo ra đã tiêu hủy sự đoàn kết dân tộc vốn là yếu tố quyết định trong việc chống ngoại xâm bảo vệ độc lâp của ông cha ta. Ngày nào còn chế độ CSVN thì ngày ấy Dân tộc VN còn bị chia rẽ và bất lực, Đất nước VN còn bị nô lệ ngoại bang. Hiện nay đảng CSVN còn đem sự chia rẽ đó để phá hoại cộng đồng Người Việt hải ngoại bằng Nghị quyết 36 của Bộ Chính trị.<br />Xin hãy nhìn: Ấn Độ nhờ không có đảng CS mà đã độc lập từ năm 1948 và đang trở thành một cường quốc với một dân tộc đoàn kết hùng mạnh<br />III- KẾT QUẢ ĐẾN NGÀY HÔM NAY<br />1- Về tuyên truyền thì phía CS biết sử dụng chiêu bài mị dân “giải phóng thuộc địa”. Nước Mỹ thì vừa ra khỏi Chiến tranh Triều tiên (1951 1953), không dám nhảy vào cứu Pháp bị sa lầy ở Điện Biên phủ, sợ làn sóng chống đối của dân chúng Mỹ vốn rất sợ chiến tranh và chết chóc. <br /> 2- Hoa Kỳ đã sáng suốt không ký vào Hiệp định Genève (7-1954) và nỗ lực củng cố Miền Nam Quốc gia bằng chế độ Việt Nam Cộng hòa, dân chủ và tiến bộ như Tây phương.<br />Nền hành chánh và Quân lực VNCH được thế giới xếp vào bực nhứt Đông Nam Á. Cảnh sát QG của VNCH dẹp biểu tình tinh nhuệ hơn bất cứ nước nào khác. Dù đang chịu đựng chiến tranh, kinh tế VNCH chỉ đứng sau nước Nhật. Trước ngày CSBV đem 12 sư đoàn vào bức tử Miền Nam, không có bất cứ dấu hiệu nào khiến cho Miền Nam phải thất trận, ngoại trừ sự bội ước của chánh khách Hoa Kỳ từ khước cung cấp súng đạn cho Quân lực VNCH như đã cam kết.<br />3- Vì nghe theo cố vấn của Kissinger, Hoa Kỳ đã sai lầm thảm hại khi quyết định rút ra khỏi Việt Nam và Đông Nam Á, giao cho Trung Cộng vai trò làm “cai thầu” khu vực, đồng thời trục lợi từ thị trường tiêu thụ của hàng tỷ người Tàu. Kissinger đã phạm 3 lỗi lầm chiến lược quan trọng:<br />a- Lần đầu tiên trong lịch sử mình, Hoa Kỳ đã phải mang vết nhơ phản bội đồng minh mình. Đệ nhứt cường quốc Hoa Kỳ từ nay không còn đáng tin cậy nữa trên chính trường quốc tế.<br />b. Không tiên đoán nổi khả năng lớn mạnh nhanh chóng của nước Tàu. Hoa Kỳ đã vỗ béo con “hổ Trung Cộng” để bây giờ nó sẽ trở lại ăn thịt mình.<br />c- Không biết được trữ lượng khổng lồ về tài nguyên thiên nhiên (dầu mỏ) của vùng Biển Đông. Số tài nguyên nầy (phần lớn là năng lượng) có khả năng đưa Trung Cộng lên hàng đệ nhứt cường quốc thế giới và đánh bại Hoa Kỳ. Hiện Trung Cộng đã đem tàu chiến, tàu ngầm đến trấn giữ: nếu muốn trở lại, cái giá mà Hoa Kỳ phải trả chưa chăc là nhỏ.<br />IV- CÁC BIẾN CỐ LỊCH SỬ BẤT LỢI CHO PHÍA QUỐC GIA<br />1- Tập đoàn HCM (HCM, Lê Hồng Phong, Trường Chinh...) được Nga, Tàu đào tạo để đem phong trào CS Quốc tế về quảng bá ở Đông Dương (1920-1945). CS Quốc tế được tổ chức và lãnh đạo liên tục.<br />2- Trung Cộng chiếm Trung Hoa Lục địa (1949) làm hậu phương vững chắc cho VC. Trước 1949, quân Pháp Việt đã chiếm ưu thế ở Đông Dương.<br />3- Pháp bị phe CSQT (Nga Tàu) đánh bật khỏi Đông Dương (1954). Hoa Kỳ không tiếp cứu Pháp sau trận Điện Biên phủ.<br />4- Hoa Kỳ rút khỏi Đông Dương và gián tiếp giúp cho con “Hùm Trung Cộng” lớn mạnh (từ 1972 tới nay) bằng chánh sách giao thương.<br />5- CSVN được phe CS quốc tế viện trợ quân sự vô giới hạn. Phe thế giới Tự do lo cho quyền lợi của chính họ trước nhứt. Áp lực của dân chúng trong chế độ dân chủ tạo sự thiếu liên tục trong chánh sách đối với đồng minh., trái ngược với chế độ độc tài của CS.<br />6- Chế độ Thực dân chủ trương tiêu diệt hết các nhà lãnh đạo Quốc gia có tài và không cho phép đào tạo hàng ngũ lãnh đạo mới. Cuộc khủng hoảng lãnh đạo của chúng ta còn kéo dài đến ngày hôm nay.<br />V- HIỂM HỌA HÔM NAY: CÁC HÌNH THỨC XÂM LƯỢC CỦA TRUNG CỘNG<br />1- Mất lãnh thổ, lãnh hải, Hoàng Sa, Trường Sa, tài nguyên kinh tế trên thềm lục địa. Chưa chi mà đồng bào ta ở nhiều tỉnh Miền Trung đã bắt đầu chết đói vì không được phép đánh cá ở những nơi mà ông cha họ đã tùng làm ăn từ mấy trăm năm nay. Thềm lục địa VN hiện là một trong những nơi có trữ lượng dầu mỏ lớn nhứt thế giới.<br />2- An ninh quốc phòng: VN hoàn tòan bị Trung Cộng bao vây kín, không có lối thoát.<br />3- Mất hải lộ chuyển vận huyết mạch giao thông giữa châu Âu, châu Úc và châu Á đi ngang hải phận VN, tác hại nặng nề đến nền kinh tế quốc gia VN. <br />4- Các hợp đồng cho thuê đất rừng 50 năm đương nhiên biến VN thành một thuộc địa của Tàu.<br />5- Với các dụ án khai thác quặng mỏ, xây dựng nhà máy, hạ tầng cơ sở được giao cho các “công ty” Tàu thầu thì hàng trăm ngàn lính TC ngụy trang là công nhân lập làng, lập chợ khắp nơi như chính trên đất nước Tàu.<br />6- Chủ trương xua đàn ông Tàu qua lấy gái Việt để Hán hóa dân ta.<br />7. Tuồn (dumping) hàng hóa hư hỏng, độc hại qua đầu độc người Việt Nam, gây hậu quả di truyền lâu dài vô cùng nguy hiểm cho nhiều đời con cháu chúng ta (còn hơn chất độc da cam nhiều lần).<br />8- Phá hoại nặng nề nền kinh tế VN: nền công kỹ nghệ sản xuất của VN bị phá sản vì không cạnh tranh được với hàng lậu TC, ngân sách quốc gia thì thất thu… Mà hễ thất thu thì phải chạy qua Tàu xin viện trợ… nên không mong gì thoát ra khỏi được sự lệ thuộc vĩnh viễn vào mẩu quốc Tàu! Đây là hình thức “xâm lược” vô cùng hiểm độc.<br />VI- THỬ VẠCH RA VÀI PHƯƠNG SÁCH CỨU NƯỚC<br />1- Giải pháp 1: Thay đổi từ bên trong.<br />Đảng CSVN tự nguyện trao trả quyền lãnh đạo Đất nước lại cho toàn Dân để cứu Nước, vì chủ nghĩa CS đã bị loài người và lịch sử đào thải, đã đưa Dân tộc đến bờ tiêu vong hiện nay với họa Bắc xâm, và bế tắc vể ngoại giao, chính trị, kinh tế, nhân tâm, v.v… Đảng CSVN đã bị đẩy vào thế làm một “con tin” của Trung Cộng nên dù có muốn cũng không thể lãnh đạo công cuộc chiến đấu chống lại Trung Cộng được. Liên Xô trước đây chỉ bị bế tắc về kinh tế mà tạo được “tiền đề” cho Gorbachev “phi Cộng sản hóa” Liên Xô mà không cần nổ một phát súng hay đổ một giọt máu. Dân tộc Đức cũng đã được “phi Cộng sản hóa” một cách êm ả vì, dân tộc Đức có một ý thức cao độ về quyền lợi sống còn của dân tộc mình. Suốt 45 năm chiến tranh lạnh, dân tộc Đức không hề để cho thế lực ngoại lai xúi giục tàn sát lẫn nhau: Đông Đức đã không đem xe tăng Liên xô sang “giải phóng Tây Đức”, như Đảng CSVN đã “giải phóng Miền Nam”. Để hoàn thành nghĩa vụ quốc tế, đảng CSVN đã quyết đánh đế quốc Mỹ đến... người Việt Nam cuối cùng”, và thực tế đã đem cả chục triệu sinh linh người Việt để “đánh Mỹ cứu Nước”. Giờ đây, “đảng” lại phải tốn cả chục triệu thanh niên VN nữa để đuổi Tàu mà chưa chắc được, nếu không nhờ đến Mỹ! Ý thức đặt quyền lợi Dân tộc lên trên hết cũng được thấy ở dân tộc Nhật. Sau khi bị hai quả bom nguyên tử, phe quân phiệt Nhật thay vì bám lấy quyền lực đã tự nguyện rút lui để cho Nhật hoàng ký hòa ước đầu hàng Đồng Minh, cứu dân Nhật khỏi nạn diệt vong. <br />2- Giải pháp 2: Lực lượng yêu nước quốc nội phải đứng lên thay đổi chế độ<br />Không có chế độ độc tài nào mà tự nguyện từ bỏ địa vị thống trị và quyền lợi của họ, trừ khi bị bắt buộc. Muốn tạo ra một sự thay đổi chế độ (regime change), các lực lượng dân tộc yêu nước như thanh niên, sinh viên, trí thức, quân đội, công nhân, đảng viên thức tỉnh, v.v… phải đứng lên thành lập “Phong trào Quốc dân cứu Nước” đấu tranh một cách có tổ chức và lãnh đạo. Chỉ cần một cuộc xuống đường với vài trăm ngàn người tại Hà Nội là có thể lật đổ chế độ. “Quân đội nhân dân” chả lẽ lại đi chĩa súng bắn lại nhân dân, trong khi họ hy sinh chiến đấu chống ngoại xâm, bảo vệ Tổ quốc. Thời cơ bây giờ là lý tưởng, vì không còn ai tin tưởng vào một đảng CSVN phản quốc nữa. Ngọn cờ “chống ngoại xâm” bao giờ cũng là sự thôi thúc mạnh mẽ nhứt đối với dân tộc Viêt Nam trong hơn 4000 lịch sử. <br />3- Giải pháp 3: Chánh phủ Lưu vong (của lực lượng Quốc gia hải ngoại)<br />Khi nước Pháp bị Đức chiếm và dựng lên Chánh phủ Pétain làm tay sai cho Đức, tướng De Gaule phải chạy qua nước Anh thành lập Chánh phủ lưu vong để lãnh đạo công cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Đức quốc xã. Nhà Cầm quyền Hà Nội và đảng CSVN hiện chỉ là tay sai của đảng CS Trung Quốc, không do toàn dân Việt Nam bầu ra nên không phải là đại diện hợp pháp của nhân dân Việt Nam. Vì mối tương quan lịch sử đó, Nhà cầm quyền Hà Nội KHÔNG thể lãnh đạo công cuộc đấu tranh chống Trung Cộng được. Nhất định phải có một Chánh phủ không phải là “con tin” của Trung Cộng.<br />Nhiều giải pháp có thể thực hiện được:<br />a- PHỤC HỒI TƯ CÁCH PHÁP LÝ CỦA VNCH<br />Tướng Dương Văn Minh là tổng thống bất hợp pháp dựa vào Hiến pháp của đệ II Cộng hòa. Bởi vậy có thể triệu tập lại lưỡng viện Quốc hội của Đệ II Cộng hòa để đại diện cho VNCH và cử Chánh phủ lãnh đạo cuộc kháng chiến chống sự xâm lược của Trung Cộng hiện nay.<br />b- TRIỆU TẬP QUỐC DÂN ĐẠI HỘI (Hội nghị Diên Hồng) <br />Nếu giải pháp a. trên đây không thực hiện được thì phải triệu tập một “QUỐC DÂN ĐẠI HỘI” để có tư cách tạm thời đại diện nhân dân Việt Nam, phủ nhận tư cách đại diện của ngụy quyền Hà Nội, là tay sai của đảng CS Trung Quốc.<br />Các giai đoạn cần thực hiện: <br />1. Phát động một PHONG TRÀO QUỐC DÂN CỨU NƯỚC<br />2. Triệu tập một QUỐC DÂN ĐẠI HÔI (HỘI NGHỊ DIÊN HỒNG)<br />3. Đặt ra cơ cấu và cử nhân sự lãnh đạo công cuộc chống ngoại xâm theo khái niệm Chánh phủ Lưu vong của De Gaule.<br />4. Giải pháp 4: Trung lập hóa Bán đảo Đông Dương<br />Giải pháp “Trung lập hóa Việt Nam” bây giờ là thích hợp nhứt và cần thiết nhứt. Đây là giải pháp ít tốn kém xương máu nhứt và có giá trị chiến lược lâu dài cho 3 dân tộc trên bán đảo Đông Dương nhứt. Nhiều thức giả đã đưa đề nghị nầy trong quá khứ trong đó có GS Vũ Quốc Thúc và nhiều chiến lược gia khác. <br />Yếu tố thuận lợi của chúng ta là 4 triệu người Việt ở hải ngoại hiện nay có thể vận động ngoại giao với các quốc gia có thế lực, nhứt là Hoa Kỳ để chấp nhận giải pháp nầy. Nó sẽ mang lại nền hòa bình lâu dài cho Việt Nam để tái thiết Đất nước, mà không tốn phí ngân sách quốc phòng.<br />Cần ghi nhận một điều là trong quá khứ phía VN Quốc gia chúng ta đã thất bại một phần là vì không biết sử dụng vũ khí ngoại giao như Đài Loan và Do Thái là những nước còn nhỏ hơn VNCH gấp nhiều lần, mà vẫn tồn tại được.<br />KẾT LUẬN<br />Đối với người Việt Quốc gia yêu Nước, tình thế hôm nay chưa hẳn là tuyệt vọng, nhưng chúng ta phải thay đổi toàn diện từ cách nhìn đến cách tổ chức, và làm việc của mỗi người chúng ta và mỗi tổ chức chúng ta. TỔ CHỨC KHOA HỌC VÀ LÃNH ĐẠO HỮU HIỆU là hai yếu tố mà các tổ chức đấu tranh ở hải ngoại chúng ta chưa có trong 35 năm qua. <br />CƠ HỘI NÀO CHO DÂN TỘC VIỆT NAM?<br />Gần 4 triệu người Việt tỵ nạn CS ở hải ngọai hiện nay là một lực lượng hùng hậu có thể huy động vào công cuộc cứu quốc. Dù thương hay ghét nước Mỹ, phải nhìn nhận là để chống lại nước Tàu hiện nay, chỉ có thể nhờ đến sức mạnh quân sự, ngoại giao, kinh tế, tài chánh và kỹ thuật của Hoa Kỳ. Sau đây là những cơ may (opportunities) của chúng ta:<br />1- Chúng ta có tiếng nói của những công dân Hoa Kỳ để ảnh hưởng chánh sách của Hoa Kỳ.<br />2- Chánh quyền Hoa Kỳ đang chủ trương trở lại Á châu<br />3- Chánh quyền Hoa Kỳ đã ký nhiều hiệp ước với Việt Nam kể cả hiệp ước quân sự và nguyên tử lực để có khả năng can thiệp vào Việt Nam nếu VN bị Trung Cộng uy hiếp. Hoa Kỳ đã biết sửa chữa một số lỗi lầm quá khứ của mình.<br />4- Chánh quyền Hoa Kỳ đang “ly gián Nga với Trung Cộng” và liên minh với Ấn Độ, Pakistan để bao vây Trung Cộng. Các tướng lãnh Hoa Kỳ đã công khai báo động về hiểm họa quân sự của Trung Cộng từ vài năm nay rồi.<br /> 5- Gần như cả thế giới đang chống lại tham vọng hiện nay của Trung Cộng ở Biển Đông, từ Á sang Âu: Nhựt, Đại Hàn, Nam Dương, Phi Luật Tân, Mã Lai, Ấn Độ, EU. <br />6- Hoa Kỳ và các cường quốc dân chủ còn nắm giữ “con bài tẩy kinh tế” của Trung Cộng: dân chúng Trung Cộng nổi loạn ngay nếu Tây phương ngưng nhập cảng hàng Trung Cộng. <br />7- Hoa Kỳ cũng đang nắm con bài tẩy về kinh tế và tài chánh đối với VC. Hoa Kỳ đang cho Hà Nội xuất cảng tối đa vào Hoa Kỳ để phải bị lệ thuộc vào Hoa Kỳ. VC cũng đang vay một số nợ ngoại tệ khổng lồ của các định chế tài chánh mà Hoa Kỳ kiểm soát. Hoa Kỳ hiện là nước đầu tư lớn số 1 tại VN nên sẽ giữ vai trò quyết định đối với nền kinh tế và tài chánh VN.<br />Xin nhắc lại, sau 70 năm được xây dựng kiên cố, thành trì CS quốc tế Liên Xô đã sụp đổ không do bom đạn hay hỏa tiễn của phe Tự do mà là do bế tắc kinh tế và tài chánh mà đảng CS Liên xô không giải quyết nổi.<br />Cái chế độ lỗi thời, phản dân, bán Nước ở Hà Nội hiện nay liệu có xứng đáng để tồn tại hay không?<br />Đồng bào hải ngoại, các tầng lớp thanh niên, sinh viên, trí thức, quân nhân, công nhân yêu nước tại quốc nội từng bị “Đảng” lừa gạt gần một thế kỷ nay, xin hãy trả lời câu hỏi đó, và hãy hành động cúu nguy Tổ quốc!<br />Hải ngoại, mùa Quốc Hận 2010VIET NAM QUE HUONG TOIhttp://www.blogger.com/profile/17768876020603625276noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-7636341192878165251.post-91174658174110250962010-09-19T02:35:00.000-07:002010-09-19T02:39:40.707-07:00DANH MIEN NAM 30 NAM MA KHONG CUOP THI UONG LAM DAY!!!SAU 35 NAM TROM CUOP<br />Cách đây hơn 20 thế kỷ, vào thời Xuân Thu, nhà binh pháp số một của nhân loại là Tôn Tử có nói (đại ý): “Chiếm được thành quách mà không chiếm được lòng người thì cũng kể là thất trận”. Cuối thế kỷ thứ 20, một lãnh đạo tinh thần hàng đầu của thế giới là bà Chiara Lubich, người sáng lập phong trào Focolare với hàng triệu thành viên, cũng nhắc nhở: “Những chiến tích không có tình yêu thì chỉ tày là mây khói”. <br />Trong những ngày này, tại Việt Nam và tại các đại sứ lãnh sự quán của Việt cộng (VC) trên khắp hoàn cầu, nhà cầm quyền Cộng sản đang tưng bừng tổ chức cái gọi là “35 năm phóngải miền Nam, chiến thắng VN”. Những đoạn phim, những hồi ký phía CS về ngày 30-04-1975 được chiếu đi chiếu lại, nhắc đi nhắc lại để cho toàn dân trong nước thấy được “cuộc chiến thắng lẫy lừng dưới sự lãnh đạo tài tình của đảng”. <br />Quả là có một “chiến thắng” khi chiếc xe thiết giáp T54 của Cộng quân húc đổ cổng Dinh Độc lập, đầu não của chính quyền Việt Nam Cộng Hòa, và khi toàn bộ Quân lực miền Nam buông súng. Tiếp theo đó là những lời huênh hoang của các lãnh đạo CS đương thời, nào là “Đế quốc Mỹ đã thua trận”, nào là “Từ đây lịch sử sẽ có một cột mốc mang tên: Thế giới sau VN!”, nào là “Trong 10 năm tới chúng ta sẽ vượt Nhật, và 15 năm tới sẽ vượt Mỹ” v.v…. Men “chiến thắng” của CS cũng bày tỏ qua nhiều hành động đáng được ghi vào lịch sử: xua đuổi hoặc giết bỏ các thương binh VNCH để chiếm lấy các quân y viện, trục xuất khỏi nhà thân nhân các quân cán chính miền Nam không may có cơ ngơi hơi khá to đẹp, kìn kìn khuân vác chuyên chở bao tài sản công lẫn tư ra miền Bắc, chia chác cho nhau đất đai nhà cửa của kẻ thua trận, gọi đấy là chiến lợi phẩm, tìm cách “mượn vĩnh viễn” vô số cơ sở của các giáo hội… Tuy nhiên, đó chỉ mới là những hành động ăn cướp kiểu đột xuất. Phải ăn cướp có chính sách thì mới chứng tỏ ta là người chiến thắng oanh liệt! Thế là những chủ trương thâm độc ra đời: nào là “xây dựng kinh tế mới” để tước đoạt nhà cửa của cư dân thành thị miền Nam, nào là “cải tạo công thương nghiệp” để cướp bóc và phá hủy hạ tầng cơ sở đầy hữu hiệu của nền kinh tế tư bản, nào là “cải tạo tư tưởng chính trị” để đọa đày hàng triệu quân cán chính VNCH -tài nguyên đất nước- trong vô số trại tù khủng khiếp mang mỹ danh lừa dối “trại cải tạo”, để tống ra khỏi mọi cơ quan công quyền, mọi cơ sở giáo dục ở miền Nam những “đầu óc ngụy độc hại” vốn cũng là nguyên khí quốc gia, để tịch thu phá hủy bao kho tàng văn hóa từ văn chương, âm nhạc tới mỹ thuật, từ tủ sách thư viện tới thánh thất miếu đình, từ lễ hội nhân gian đến lễ hội tôn giáo, nào là “san bằng lợi tức, thực hiện công bình xã hội” qua mấy chiến dịch hoán đổi tiền, đăng ký vàng nhằm mục đích vét sạch túi nhân dân và vô sản hóa quần chúng ngoài đảng. Đó là chưa kể chủ trương bán bãi, săn lùng người vượt biên chỉ nhằm mục tiêu chủ yếu là cướp nữ trang vàng bạc của những ai không chịu đựng nổi chế độ mà muốn thoát ra nước ngoài. <br />Và đây chính là một trong những dấu hiệu của việc chiến thắng trở thành chiến bại. Sự thất bại này có nhiều mặt. Trước hết thất bại về mặt nhân tâm. Ngay trong những tháng ngày hấp hối của chế độ Sài Gòn, hàng triệu người miền Nam đã dùng đủ mọi cách để vào nam, “chạy giặc CS”, trốn “đoàn quân giải phóng” như trốn ôn dịch. Sau đó vài tháng là hàng ngàn, hàng chục ngàn, hàng trăm ngàn, rồi cả triệu người dân miền Nam (những ai có cơ may và phương tiện), thậm chí cả một số dân miền Bắc, đã “bỏ phiếu bằng chân”, liều mạng tìm đường thoát khỏi “thiên đường xã hội chủ nghĩa” bằng tất cả mọi phương tiện. “Nạn thuyền nhân” như tên gọi hiện giờ là những trang bi hùng nhất của lịch sử nhân loại và lịch sử dân tộc. Hiện nay, cuộc đào thoát khỏi chế độ vẫn còn tiếp diễn, dưới hình thức kết hôn với Việt kiều, du học không về nước, đoàn tụ theo diện bảo lãnh, làm công nhân xuất khẩu rồi trốn ở lại… Nhưng trước đó phải kể đến sự thất vọng, ngỡ ngàng và đau xót của bao chiến binh hay dân thường miến Bắc lần đầu tiên vào được miền Nam, thấy được cảnh sống sung túc, bầu khí tự do, trình độ phát triển và tinh thần nhân bản của VNCH. Ai quên được những giòng nước mắt tức tưởi của nhà văn Dương Thu Hương ngồi xuống bên vệ đường thành phố Sài Gòn tháng 5 năm ấy, và lời tuyên bố cay đắng sau đó của bà: “Cuộc chiến giải phóng miền Nam là cuộc chiến ngu xuẩn nhất trong lịch sử dân tộc”. Nhạc sĩ Tô Hải, một người từ trong lòng chế độ ở miền Bắc, cách đây khá lâu cũng nhận định: “Đây là sự hy sinh cực kỳ vô duyên cho một chủ nghĩa không tưởng, cho sự tiếm quyền của một lớp người đang âm mưu làm Vua của cái nước VN khốn khổ này bằng chiêu bài Độc lập, Tự do mà ở các nước người ta đã có từ nửa thế kỷ trước nay rồi, vì người ta may mắn thay đã không có đảng Cộng sản cai trị!” Ông còn nói thêm về động lực gây nên cuộc chiến đó là chủ nghĩa cộng sản: “Đấy chính là một tà giáo đại bịp nhất trong lịch sử loài người mà những tên lãnh tụ tối cao của chúng dựa vào đó để gây chiến tranh nồi da xáo thịt, để tiến hành âm mưu hiểm độc tiêu diệt mọi lòng tin khác, mọi nhận thức, mọi tình cảm, mọi tình yêu, kể cả lòng yêu nước của con người!”. <br />Tiếp đến là thất bại về mặt kinh tế. Những chính sách như cải tạo công thương nghiệp, đưa miền Nam hòa nhập vào nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, những chủ trương như đổi tiền, tự sản tự tiêu, ngăn sông cấm chợ, bãi chợ đông đồng… thập niên 1975-1985 đã đẩy đất nước đến bờ vực thẳm. Cuộc “đổi mới kẻo chết” do toàn dân uất ức đòi hỏi (chứ không do nhận định sáng suốt của đảng như CS tuyên truyền) đã đưa đất nước chuyển sang kinh tế thị trường, tự do buôn bán làm ăn sản xuất khiến người dân dễ thở hơn một chút. Nhưng cũng vì thòng cái đuôi “theo định hướng xã hội chủ nghĩa”, dành ưu tiên cho “kinh tế quốc doanh, công ty nhà nước”, dựa nguyên tắc “đất đai nhân dân chỉ có quyền sử dụng” (còn quyền quản lý -thực chất là quyền sở hữu- thuộc nhà nước, thuộc đảng), đưa ra những chương trình quy hoạch đất đai, mở rộng đô thị, xây dựng khu chế xuất, mời gọi đầu tư nước ngoài… bất chấp sự bảo vệ môi trường, sự an sinh của dân chúng, sự tôn trọng tài sản công dân, sự đồng bộ trong kế hoạch phát triển, cộng thêm nạn “quy hoạch treo”, “lãnh chúa địa phương”, “cường hào ác bá”… tất cả đã tạo nên một thiểu số tư bản đỏ giàu sụ, sống xa hoa, thuộc giai cấp thượng lưu, bên cạnh một thiểu số trung lưu và đại đa số nhân dân bị đẩy vào giai cấp hạ lưu nghèo khổ… Đất nước hiện sống còn nhờ dựa vào việc bán tài nguyên (, mượn vốn quốc tế, trông chờ kiều hối hải ngoại… <br />Thất bại về mặt ngoại giao quốc phòng. Năm 1975 chiến thắng nhờ đàn anh Trung Cộng, VC càng hí hửng tin vào tình quốc tế vô sản, nghĩa đồng chí anh em (niềm tin này có từ thời tên quốc tặc HCM). Thế nhưng bang giao quốc tế chỉ là vấn đề quyền lợi dân tộc, nghĩa tình cộng sản chỉ là cá lớn nuốt cá bé, trong tội ác (nhất là tội ác xâm lăng) không có đồng chí mà chỉ có đồng lõa, sẵn sàng phản bội nhau khi chia chác chiến lợi phẩm. Liền sau chiến thắng, Trung cộng đã đòi trả nợ. Khổ nỗi đầu óc bành trướng đại Hán chỉ đòi trả bằng đất đai. Thế là VC phải để yên cho TC xây dựng Hoàng Sa mà chúng đã chiếm của VNCH một năm trước đó. Tới năm 1979 lại đành mất một số cao điểm chiến lược trên vùng biên giới phía Bắc. Năm 1999 rồi 2000 lại dâng tiếp cho quan thầy gần cả ngàn km2 lãnh thổ và trên mười ngàn km2 lãnh hải. Năm 2008 lại để cho Tàu vào tận trong đất nước qua dự án khai thác bauxite Tây Nguyên, qua chủ trương cho thuê rừng quốc phòng và rừng phòng hộ. Song song đó là để cho lân quốc Bắc phương, kẻ thù truyền kiếp, xâm lấn quốc gia về mặt kinh tế, văn hóa, chính trị. Chiến thắng cho độc lập tự do đâu chả thấy, chỉ thấy đất nước, nhất là Bộ Chính trị đảng, ngày càng vào trong cái rọ của Tàu đỏ. <br />Thất bại về mặt chính trị. Ngay từ thập niên 70-80, đã có những cuộc nổi loạn của nhiều tổ chức vũ trang muốn phục quốc, những phản kháng bất bạo động của một số thường dân hay tín đồ bị chèn ép, sự bất mãn của nhiều chiến binh, cán bộ thấy mình bị lợi dụng xương máu, lường gạt lý tưởng… Đến cuối thế kỷ 20 và đầu thế kỷ 21, phong trào phản kháng tại quốc nội và ở hải ngoại ngày càng dâng cao. Nhiều nhóm, khối, tổ chức, chính đảng phi cộng và chống cộng trong nước xuất hiện. Họ mạnh mẽ tố cáo những tội ác, vạch trần những sai lầm của chủ nghĩa, chế độ và chính đảng CS. Họ truyền bá cho dân những ý niệm về tự do, nhân quyền, công bằng, dân chủ, để nêu bật tính đàn áp, phi nhân, bất công, độc tài của chế độ. Nhiều tín hữu và chức sắc, nhiều tổ chức và cộng đồng giáo hội cũng đứng lên, một mặt kêu gào tự do tôn giáo, một mặt đòi hỏi công lý nhân quyền, qua những bài quan điểm, những buổi cầu nguyện, những cuộc tập hợp, những lần biểu dương trước tòa, những chiến dịch bất tuân dân sự… Mới đây lại có phong trào tố cáo sự can thiệp của CS vào nội bộ tôn giáo và sự thỏa hiệp của một số chức sắc quan trọng. Vô số trí thức và sinh viên học sinh cũng tổ chức những cuộc xuống đường chống ngoại xâm lẫn nội xâm, thiết lập những trang dân báo điện tử, những diễn đàn liên mạng để bày tỏ chính kiến trước những vấn đề của đất nước xã hội, hình thành những tổ chức dân sự, phi chính phủ (hay tự giải thể) để bày tỏ lập trường…. Cộng đồng người Việt hải ngoại cũng ngày càng nêu cao chính nghĩa của tự do dân chủ, tinh thần của VNCH qua vô số hoạt động như tẩy chay tham dự, biểu tình phản đối những gì là của Việt cộng, như hiệp thông bênh vực, ủng hộ tài trợ cho phong trào dân chủ trong nước, như thông tin cho quốc tế, vận động các chính khách về mặt thật chế độ, hiện thực Việt Nam… Tất cả những điều trên cho thấy sau 35 năm, những ai và cái gì mới thực sự chiến thắng. Như trong tôn giáo, người chiến thắng là vị tử đạo kiên cường giữ vững đức tin dù phải bị bắt quỳ trước kẻ ngồi ngai bách hại, thì trong chính trị xã hội cũng vậy, người chiến thắng là người đang xác tín, đang theo đuổi và đang nỗ lực thực hiện các giá trị dân chủ nhân quyền, dù tạm thời bị tà lực độc tài đàn áp. Bởi lẽ chiếm được thành, được nước mà không chiếm được lòng người như Tôn Tử nói thì chiến thắng cái nỗi chi???VIET NAM QUE HUONG TOIhttp://www.blogger.com/profile/17768876020603625276noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-7636341192878165251.post-17077776058571795532010-04-25T00:51:00.000-07:002010-04-25T01:25:39.944-07:00AC THU HO CHI MINH GIET NU THANH NIEN MIEN BAC TREN DAY TRUONG SON (PHAN 3 ) CON TIEPTuy không đi sâu nghiên cứu xã hội học, việc tuyển mộ TNXP do đây vẫn là một công việc tự thân nó còn phải làm rất nhiều, vấn đề thành phần xã hội của TNXP cũng cần được đặt ra. Những người được tuyển mộ là ai? Về mặt chính thức, việc tuyển mộ hoàn toàn nhắm vào những thanh niên không phân biệt giai cấp xã hội, tôn giáo, nguồn gốc sắc tộc, nhưng trên thực tế thì lại không mấy rõ ràng.[10] Đại đa số TNXP đều được chọn từ thanh niên nông thôn: “chủ yếu là thanh niên xuất thân từ các hợp tác xã nông nghiệp, học sinh các trường sơ cấp và chuyên nghiệp và con em cán bộ.”[11] Trong số họ, đa phần là những thiếu niên nam nữ tuổi từ 15 đến 20. Trong nhiều trường hợp, tuổi quy định để gia nhập TNXP hạ xuống còn 13 tuổi. Đó chính là trường hợp đặc biệt của những nhóm “TNXP Giải phóng Miền Nam” có độ tuổi từ 13 đến 24 tuổi[12]. Trong số những thanh nữ được tuyển thì học sinh nữ hiện diện rất thường xuyên. Do đó, một báo cáo của chiến dịch thi đua năm 1967 chỉ rõ ra rằng “một số khá đông những học sinh nữ cấp II và III đã tạm thời rời khỏi ghế nhà trường để nắm lấy cơ hội duy nhất này – chỉ xảy ra một lần mỗi thế kỷ – để đem thân phục vụ cho Tổ quốc”[13]. Điều này cho phép hiểu ngầm rằng những thanh nữ 12 hoặc 13 tuổi cũng có thể được tuyển trong trường hợp cần thiết.<br />Đối với những thiếu niên-lính này (thậm chí trong một vài trường hợp là trẻ em-lính), vũ khí chỉ là cuốc chim đơn giản, xẻng lớn và hành trang trí thức ít ỏi mang theo người chỉ là vài năm học sơ cấp ở trường. Họ gặp nhau và chỉ trong mấy ngày là bị đẩy ra tuyến lửa. Không có kiến thức quân sự, tất cả họ đều được huấn luyện tại chỗ như câu khẩu hiệu “Khắc làm, khắc biết” đã tóm ý[14]. Đối với những học sinh nữ ở các thành phố chẳng biết gì ngoài việc cầm bút, tham gia các công việc lặt vặt trong gia đình, hãy còn được mẹ nuông chiều và ban đêm vẫn còn sợ ma thì sự hụt hẫng của họ thật dữ dội[15]. Sau khi được tập hợp và biên chế thành đơn vị, những TNXP được nhanh chóng gởi ra tuyến lửa. Văn Tùng và Nguyễn Hồng Thanh nhắc lại những điều kiện khủng khiếp của chuyến lên đường ra mặt trận:<br />“Nhiều đội viên chưa một lần xa nhà. Phần lớn họ là những thanh niên nông thôn, chưa quen đi bộ đường xa 5 – 7 km, nay phải hành quân mang nặng, phải trèo đèo, lội suối, qua truông dài hun hút. Có đơn vị khi lên đường vẫn chưa có dép, hoặc có nhưng không đúng cỡ, phần lớn anh em phải đi chân đất, bàn chân phồng rộp. Một số đội viên TNXP đã ngã xuống ngay trên đường hành quân, vì bom đạn Mỹ hoặc do rắn cắn, chưa kịp một ngày cống hiến.”[16]<br />Về việc cung cấp, thông tư ngày 30 tháng 6 năm 1965 có quy định về khẩu phần, lương bổng, trang phục, nhưng tất cả đều thiếu. Về mặt thực phẩm, ngày 11 tháng tám 1965, Bộ Nội vụ CC ra sắc lệnh về khẩu phần lương thực chính thức hằng tháng phải phân phối cho các TNXP[17]. Dù cho rất rõ ràng, những sắc lệnh có liên quan đến việc tiếp tế vẫn đơn thuần mang tính lý thuyết và hoàn toàn không phù hợp với thực tế khắc nghiệt của chiến trường. Do Mỹ ném bom thường xuyên nên tình trạng thiếu thốn (lương thực và quần áo) rất phổ biến, không thể thực hiện việc tiếp tế liên tục hay đều đặn được[18].<br />Khi phân tích ngắn gọn về thành phần của lực lượng này, tôi tưởng cũng nên đi sâu vào tỷ lệ đàn ông/đàn bà (thậm chí có thể nói tỷ lệ trẻ trai/trẻ gái căn cứ vào tuổi của một vài em trong số đó). Từ năm 1965, việc tuyển mộ ồ ạt thanh niên mới cho các đoàn “TNXP chống Mỹ cứu nước” chính thức đưa tỷ lệ hiện diện của nữ trong lực lượng lên trên 50%[19]. Trên Đường mòn Hồ Chí Minh, TNXP của Đoàn 559 hầu như gồm toàn các cô gái. Trong một vài Đội, tỷ lệ thanh nữ chiếm hơn 70%[20]. Đại đội 551 (TNXP 55) gồm 105 nữ trên 131 đội viên với tỷ lệ là 80%[21]. Đại đội TNXP 873 (được thành lập ngày 2 tháng giêng năm 1966) có 170 nữ trên 200 quân được tuyển, tỷ lệ là 85%[22]. Một số nhóm khác do nam giới chỉ huy thì gồm toàn thanh nữ như trường hợp Đại đội 512 có nhiệm vụ bảo vệ Hà Nội, Đại đội 459 làm công tác công binh trên dãy Trường Sơn hoặc Đại đội C333 nổi danh do được Hồ Chí Minh GAI BAY CHET.<br />Những cô gái này làm đủ thứ công việc: xung phong gỡ mìn, lái xe tải nặng, làm y tá cấp cứu, sửa chữa các tuyến đường giao thông, lấp hố bom… Những câu chuyện kể về họ đều giống nhau, đan xen giữa sự hy sinh vô hạn, lòng dũng cảm mẫu mực và định mệnh đau thương không thể tránh khỏi. Trong số những nữ TN nổi tiếng nhất, phải kể đến: mười cô gái tại ngã ba Đồng Lộc ở tỉnh Hà Tĩnh và mười hai cô gái ở Truông Bồn trong tỉnh Nghệ An[24]. Đặc biệt, mười cô gái tại ngã ba Đồng Lộc (huyện Can Lộc) ở tỉnh Hà Tĩnh . Tiểu chú chính thức về họ được ghi như sau: “Ngày 24 tháng bảy 1968, sau 18 lần địch đánh phá, một loạt bom thả trúng vào hầm, mười cô gái Đồng Lộc đã hy sinh vào lúc năm giờ chiều, trong tư thế tay vẫn cầm dụng cụ sản xuất”[26] Với những dụng cụ như xẻng, cuốc chim, xô, các công cụ của thợ cơ khí trong tay, thì dù tràn đầy lòng dũng cảm và ý chí ( NGU), việc chống chọi lại sức tấn công của bom pháo thường vẫn là vô nghĩa.<br /><br />Những nỗi đau dai dẳng vẫn còn hằn sâu trong suốt những năm hậu chiến. Những địa điểm hiểm nguy nhất đã được các cựu TNXP đặt cho những cái tên rất cụ thể: “Cửa tử thần”, “Đèo lò lửa”, “Ngã tư thịt chó”, “Ngã ba âm phủ”, “Đồi thịt xáo”, “Đất của những hồn ma kêu hú”, “Thung lũng những oan hồn lạc lối”[27]. Đường 20 tháng bảy, được đặt tên lại là “đường Quyết Thắng”, hiển nhiên là ví dụ tiêu biểu nhất cho những cửa tử thần này. Trong vòng chưa đầy một năm, nơi đó đã có 200 đội viên TNXP tử nạn và 700 người khác bị thương[28]. Lại một ví dụ khác, từ tháng ba đến tháng 10 năm 1968, tại Ngã Ba Đồng Lộc, chốt chặn tất yếu phải vượt qua trên đường Nam tiến phát xuất từ Đường mòn Hồ Chí Minh (Đường mòn HCM), máy bay B52 đã thả 48.600 quả bom đủ mọi loại[29]. <br />Tổng cộng tạm thời về số lượng TNXP chống Đỹ cứu nước tính theo các tỉnhViệt Nam Dân chủ Cộng hòa, Ví dụ phong trào VC có tên là “Ba Sẵn Sàng”, được phát động vào ngày 9 tháng 8 năm 1964, là một phong trào thi đua cách mạng rộng lớn nhắm vào thanh niên (1 – Sẵn sàng gia nhập lực lượng vũ trang đi chiến đấu; 2 – Sẵn sàng khắc phục khó khăn, đẩy mạnh sản xuất, công tác, học tập; 3 – Sẵn sàng đi bất cứ nơi nào tổ quốc cần)CHET NHU TRAU BO. Phong trào thứ hai, được gọi là “Ba Đảm Đang”, có liên quan trực tiếp đến giới phụ nữ hơn, là một phong trào thi đua do Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam phát động từ ngày 19 tháng 3 năm 1965, bao gồm (1 – Gánh vác việc sản xuất và lao động thay cho nam giới ra mặt trận; 2 – Gánh vác việc gia đình trong lúc chồng hoặc con trai vắng mặt; 3 – Gánh vác việc trợ giúp cần thiết cho mặt trận và chuẩn bị chiến đấu)[27]. Đối với các lực lượng TNXP được Đoàn Thanh niên Nhân dân Cách mạng (phong trào thanh niên của Mặt trận Dân tộc Giải phóng) lãnh đạo ở miền Nam, một phong trào thi đua tương tự cũng được phát động dưới tên gọi “Năm Xung Phong”, (1 – Xung phong tiêu diệt nhiều sinh lực địch; 2 – Xung phong tòng quân giết DÂN TA 3 – Xung phong trong các cuộc đấu tranh chính trị ở đô thị và nông thôn; 4 – Xung phong phục vụ tiền tuyến; 5 – Xung phong sản xuất nông nghiệp ở nông thôn)[28]. Như vậy, các lực lượng TNXP Chống Đỹ mới đã được thành lập trong bầu không khí tổng động viên toàn quốc[29]. Ngoài ra, còn phải kể đến lời kêu gọi lòng yêu nước vang dội do ÁC THÚ Hồ Chí Minh tuyên đọc ngày 17 tháng 7 năm 1966 đã tạo được sự hưởng ứng rộng lớn trong ba đợt liên tiếp nhằm tuyển mộ TNXP cho cuộc chiến[30].<br />Để đối phó với tình hình chiến tranh khẩn cấp , một đợt tuyển mộ tăng cường được phát động, và trong thời gian ngắn, đã có hơn 52.000 thanh niên BỊ gia nhập. thể hiện qua khẩu hiệu “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước” và được cụ thể hóa bằng hàng chục vạn chiến binh BỊ CUONG BUC xây dựng nên Đường mòn Hồ Chí Minh với một hệ thống chằng chịt dài 16.000 km. Trong suốt mười năm, tức từ 1965 đến 1975, “Lực lượng TNXP chống Đỹ” đã hình thành đội tiên phong nhiệt thành của một thế hệ trẻ BỊ LUA BIP. Họ trở thành NÔ LỆ trong việc cung cấp vũ khí và lương thực, tháo ngòi bom trên các tuyến đầu của mặt trận và đảm bảo các đường giao thông được thông suốt, một vấn đề sống còn trong việc chỉ đạo chiến tranh GIET NGUOI VIET NAM.<br />Hiện nay, những số liệu ước tính tổng quát liên quan đến nhiều thế hệ TNXP từ 1950 cho thấy có gần 220.000 cán bộ và đội viên tham gia. 80% quân số này thuộc quyền điều động của Bộ Giao thông Vận tải và ba phần tư các lực lượng này được hình thành từ những lực lượng TNXP tập trung của miền Bắc[31]. Quân số TNXP tập trung của miền Bắc lên đến 143.591 cán bộ và đội viên (chiếm khoảng 72% trong tổng số).[32] Tuy nhiên số liệu được mọi người công nhận là 220.000 đội viên vẫn còn là một con số tối thiểu cần được đánh giá lại. Các nguồn thông tin chính thức khác xuất phát chủ yếu từ Bộ Lao động Thương binh và Xã hội đưa ra con số tổng quát cao hơn nhiều là 330.000 cựu TNXP[33]. Thông tấn xã lại thông báo con số “hơn 335.800” cựu đội viên vào năm 2004[34].<br />Có ba nét rõ rệt nổi bật từ quá trình phát triển của TNXP từ năm 1950 đến năm 1975: 1 – Quyết định đã được đưa ra từ cấp cao nhất của Nhà nước. TÊN Hồ Chí Minh đã đích thân giám sát việc thực hiện và theo dõi quá trình phát triển của phong trào trước khi trao lại quyền chỉ huy cho guồng máy của Đảng Lao động do TÊN Lê Duẩn lãnh đạo vào thời ấy; 2 – Việc tuyển mộ và biên chế lực lượng được thực hiện khẩn cấp mà không lường trước được những hậu quả về con người. Điều này đặc biệt lộ rõ trong thời kỳ từ 1965 đến 1975 với việc các cô gái xung phong gia nhập ồ ạt; 3 – Việc giải quyết quy chế và chế độ cho các cựu đội viên của lực lượng này thường muộn màng, cứng nhắc và mang nặng tính chính trị.<br />Trong chiến tranh, việc quản lý các nguồn nhân lực của TNXP chủ yếu mang tính ý thức hệ và quân sự. Nó được kiện toàn dần qua các chiến dịch tuyển mộ và sự phát triển các trận đánh. Tình cảm chung xuất phát từ việc quản lý lực lượng tập thể này – được thành lập vì và do chiến tranh cách mạng – vẫn là thứ tình cảm của một đội quân dự bị, phần đông là nữ, chịu đựng gian khổ mà không than thở, sẵn sàng tuân phục việc huấn thị ý thức hệ tuy sơ đẳng nhưng rất gắt gao. Với danh nghĩa ấy, đức vâng lời là một yêu cầu tuyệt đối như đã được nêu ra trong lời thề mười điểm hay còn được gọi là mười điều kỷ luật của các đội viên TNXP và nội quy của tổ chức VA LAM HO LI CHO CAN BO GIAO CAU MOI DEM. Điểm đầu tiên của lời thề nhắc lại sứ mệnh thiêng liêng của các TNXP là: “Sẵn sàng hy sinh vô điều kiện vì Tổ quốc Việt Nam, vì sự nghiệp chống Đỹ cứu nước, GIET NGUOI VIET NAM TA ĐỂ ra sức xây dựng và bảo vệ miền Bắc xã hội chÓ ĩa.<br /><br />VIET CONG DA THUA LINH NGA TAU DUNG NGUOI VIET GIET NGUOI VIET, GIET NU THANH NIEN MIEN BAC TREN DAY TRUONG SON, GIET TU BINH SAU 75, GIET NONG DAN BANG DAU TO VA BAN CUNG HOA, GIET HOC TRO BANG SU HAN THU, GIET XA HOI BANG NGHEO DOI VA VO VAN HOAVIET NAM QUE HUONG TOIhttp://www.blogger.com/profile/17768876020603625276noreply@blogger.com1tag:blogger.com,1999:blog-7636341192878165251.post-74294135627598438392010-04-25T00:44:00.000-07:002010-04-25T00:46:51.304-07:00AC THU HO CHI MINH GIET NU THANH NIEN MIEN BAC TREN DAY TRUONG SON (PHAN 2 )Ra mặt trận từ năm 20 tuổi, nhà văn Dương Thu Hương là một nhân chứng hùng hồn về cuộc chiến thảm khốc này. Bà hãy còn giữ những hình ảnh chấn động về cuộc chiến, để mô tả lại một cách chân phương, không hoa mỹ, trong tiểu thuyết của mình. Ngay từ những trang đầu trong tác phẩm Tiểu thuyết vô đề, bà đã mô tả cái chết bi thảm của sáu cô gái trong rừng, mà mùi hôi thối dậy lên nồng nặc, đã dẫn đường cho những người sống đến tìm: “Chúng tôi hướng vào góc rừng đã tỏa ra mùi thối khủng khiếp mà đi. Tới vực Cô hồn, gặp sáu cái xác truồng. Xác đàn bà. Vú và cửa mình bị xẻo, ném vung vãi khắp đám cỏ xung quanh. Nhờ những tấm khăn dù, nhờ những chiếc cổ áo sơ mi kiểu lá sen tròn và hai ve nhọn mà chúng tôi nhận ra đấy là những người con gái Miền Bắc. Có lẽ họ thuộc một binh trạm hoặc một đơn vị TNXP cơ động nào đó bị lạc. Cũng có thể họ đi kiếm măng hoặc rau rừng như chúng tôi rồi vấp bọn thám báo”.[34] Một đại tiệc cho côn trùng, “say sưa chè chén”. Dĩ nhiên, lối viết có vẻ ly kỳ, bi thảm đã cho ta thấy rõ sự kinh khủng của chiến tranh, theo cách của hai tiểu thuyết gia: Malaparte (Ý) hay Remarque (Đức) nổi tiếng về việc miêu tả những thảm cảnh của hai cuộc chiến tranh tại Âu Châu. Tuy nhiên, văn của Dương Thu Hương dao động giữa hư ảo và thực tế khốc liệt của chiến tranh. Xuyên qua tác phẩm, chị dám nói lên những điều cấm kỵ của những năm 90 về sự lừa phỉnh của chiến tranh và tính chất của nó. Sự kinh tởm tuyệt đối được trình bày ở đây một cách rất thực, không che giấu, mà chẳng thể mong gì hơn ở những bản tường trình mới đây của Lê Cao Đài hay những cán bộ lãnh đạo TNXP như Nguyễn Văn Đệ. Vả lại, trong tập này, Dương Thu Hương đề cập nhiều hơn về khía cạnh xâm hại tình dục và tàn phế do chiến tranh, hai bi kịch còn ít được nhắc đến bởi thực chất tàn bạo của nó. <br />Chấn thương tâm thần và thể xác. Trong những điều kiện sống cực kỳ gian khổ, TNXP phải thích nghi cả thể xác lẫn tâm hồn. Sống trong chiến tranh, người ta dễ bị chấn thương tinh thần và việc phát lên điên loạn cũng cần được nêu lên. Trong Tiểu thuyết vô đề, Dương Thu Hương viết tiếp: “Mấy cậu sốt rét ác tính điên rồ, cởi hết áo quần ra mà nhảy múa, la hét”.[35] Cuộc sống xa gia đình kéo theo nỗi nhớ nhà và những lo ngại triền miên. Với việc chuyển đổi khắc nghiệt từ hòa bình sang chiến tranh, từ cuộc sống đời thường sang quân ngũ, từ tình cảm đến nỗi sợ hãi, một dạng “Hội chứng” đã xuất hiện, nhất là trong giới nữ. Nó đã đánh lạc hướng các nhà lãnh đạo nam giới ở các đơn vị nữ TNXP. Hiện tượng này được gọi là “điên tập thể”. Nguyễn Văn Đệ nhắc lại tình huống đã dẫn đến hội chứng này: “Có khi chị em đang xúm lại đọc một bức thư của gia đình gửi đến, bỗng một người xúc động khóc nấc lên thế là cả tiểu đội, đại đội như có sự phản ứng, kích động dây chuyền tất cả đềi la hét, khóc toáng lên và cứ thế lan ra từ đại đội này sang đại đội khác. Họ khóc, họ kêu, họ chạy, nhảy, thậm chí trèo cả lên cây nói cười lảm nhảm hàng tiếng đồng hồ”.[36]<br />Đó là một thực tế, một bộ phận cựu chiến sĩ nữ TNXP bị chìm trong bệnh cuồng bởi chiến tranh. Đương đầu với hiện tượng này, các nhà lãnh đạo quân sự và chính trị cũng lúng túng, lo ngại, bởi không ai biết phải giải quyết thế nào. Đặc biệt liên quan đến những chiến sĩ mới, hiện tượng này cũng mờ dần theo thời gian và thói quen thời chiến. Nguyễn Văn Đệ kể lại rằng mãi lâu sau chiến tranh mà những hiện tượng điên cuồng tương tự cũng xuất hiện trong đội ngũ lính trẻ quân đội nhân dân và ngay trong đơn vị TNXP của ông.[37] Một bằng chứng cũng đã được tướng Đồng Sĩ Nguyên xác nhận trong cuộc trò chuyện với Hiền, một thủ lĩnh TNXP đương nhiệm, mới hơn một năm trên đường mòn HCM. Cô cho rằng “bệnh hay cười” đang dần trở lại và lan toả trong lực lượng TNXP.[38] Trong bối cảnh đặc biệt ở môi trường không thân thiện, như bị lãnh đạo áp chế, cuộc sống bị đảo lộn bất thần và thô bạo, thì sự điên cuồng tập thể xuất hiện như một phản kháng cuối cùng. Đó như là một phản ứng tự vệ, chứ không vì mục đích chính trị hay nổi loạn cá nhân. Trước hết phải thử dùng sức mạnh tập thể để phản kháng, cả tâm hồn và thể xác, với sự khủng bố tinh thần, sự thô bạo chết người. Ở một nơi mà người ta không thể chịu đựng nổi những cuộc tranh luận chính trị, một nơi mà việc đào ngũ khó thực hiện được, thì những cuộc khủng hoảng tập thể coi như là phương cách tốt nhất để giải toả sự dồn nén cả tinh thần lẫn vật chất đè nặng lên đôi vai của những người trẻ tuổi này, trong điều kiện sống quá khắc nghiệt. Nó cho phép gắn kết tinh thần và thể xác của một đại đội, cùng chung nỗi tuyệt vọng vì một sự tồn tại như một cái án treo.<br />Cơ thể suy tàn. Cuối cùng, cái chết đến với những cơ thể suy yếu nhất. Lê Cao Đài cho biết rằng trên Mặt trận Tây Nguyên, “Anh em đã tổng kết có 32 kiểu chết ở Tây Nguyên: chết do ốm, chết do bom đạn, chết đuối, chết do rắn cắn, chết do cây đổ, chết do ăn phải nấm độc, chết do voi giày, chết do bắn nhầm nhau”.[39] Người ta cũng có thể chết vì đói, Nguyễn Văn Đệ nhớ lại.[40] Số khác, vì quá khát, chết vì uống phải nước uống bị ngộ độc. Số khác có thể là nạn nhân của những tai nạn thương tâm. 10 thanh niên bị 1 ôtô goòng chở đầy hàng hoá, cán chết giữa đêm khuya.[41] Số khác thì không sống nổi bởi những vết thương và những cuộc mổ xẻ liên tục. Những người hấp hối được giấu ở những nơi chật hẹp, như là tiền đồn của họ trước lúc ra đi vĩnh viễn.[42] Cuối cùng là một con số không kể xiết những người tự nguyện chấm dứt cuộc đời.[43] Không thể đánh giá hết sự bỏ ngũ. Tự tử, đào ngũ, mất tích, coi như 3 bản án tử hình. Dẫu sao, sau cuộc đào ngũ, vấn đề sống còn được đặt ra. Đối với đơn vị mất người, cuộc đào ngũ đồng nghĩa với việc mất tích. Cuối cùng, nhiều vụ mất tích đươc nêu ra. Nhiều thanh niên bị kiệt sức và đơn độc, đã mất xác trong rừng sâu. Cũng có khi họ may mắn gặp lại đơn vị, tiểu đội hay đại đội, là may mắn sống còn. Trong nhiều trường hợp khác, người ta đã phát hiện xác của họ, và lại còn những trường hợp tồi tệ hơn, họ biệt tích vĩnh viễn mà không để lại vết tích gì (khoảng 300.000 người mất tích trong chiến tranh).[44]<br />Việc cáng thương (vận chuyển thương binh) do nữ TNXP đảm nhiệm, cũng xảy ra nhiều chuyện đau lòng. Nhiều khi họ phải vác trên lưng những thương binh nặng đi hàng bao nhiêu cây số, mà các thương binh, vì bị đau đớn quá, đã cắn xé hay đánh đập các cô gái tội nghiệp này.[45] Rất nhiều khi vì thiếu phương tiện, thiếu thuốc men, xa thành phố, xa bệnh viện, tự thấy tình hình quá bi đát, họ đã dũng cảm chờ chết. Thân thể các thương binh và bệnh binh sốt rét tạo nên 1 hình ảnh hùng tráng mà bác sĩ Lê Cao Đài đã can đảm mô tả trong cuốn nhật ký chiến trường của mình.[46] Bệnh kiết lỵ, sốt rét, bệnh nặng ngoài da, đã nhanh chóng biến các thân thể lụi tàn thành những bộ xương, nằm chờ chết như một niềm an ủi cuối cùng.<br />Thân thể huyễn hoặc và gợi cảm. Tuy nhiên, một hình ảnh yên bình khác cũng đi song song với cảnh đáng sợ trên. Đó là lúc các cô gái cùng chia sẻ niềm vui, sự tương trợ cùng nhau trong bữa cơm chung. Một huyền thoại về cô gái TNXP đã được cánh lái xe lan truyền “Chúng tôi đi qua, được chào hỏi bằng những trận cười giòn tan. Qua ánh sáng của những vì sao, tôi thoáng thấy Nguyễn Thị Thanh, một cô gái với hàm răng sáng bóng, chiếc thắt lưng gọn gàng ôm lấy thân cô trong bộ đồ veste oai nghi”.[47]<br />Trong các trường hợp khác, một cô giao liên có thể là tâm điểm chú ý của các chàng lái xe trên dãy Trường Sơn. Cô là hiện thân hoàn hảo của một cô gái TNXP: “Cô đột nhiên xuất hiện trước mắt chúng tôi như một bông hoa lạ giữa rừng, khiến cả cánh lái xe chúng tôi sững sờ nhìn theo. Trong chiếc áo lính gọn gàng, quần lụa màu đen, đầu đội chiếc mũ kaki mềm bao trùm khuôn mặt xinh xắn, với nước da hồng hào. Lại còn đôi mắt hình hạt dẻ và tỏa sáng trí thông minh, đôi lông mày mỏng dính vẽ nên một đường cong tuyệt đẹp”.[48]<br />Trên đường mòn HCM, các đội nữ TNXP thường quan hệ với các đơn vị bộ đội, mang lại niềm vui cho họ. Nhà văn Đỗ Chu viết rằng “một quan hệ láng giềng làm họ vui sướng”[49] khi nói về việc bố trí một đại đội bộ đội gần khu lán của các cô gái trẻ. Tiếng cười của họ làm dịu đi không khí bức bối của rừng rú: “Ai cười phía trước đây nhỉ? Lại mấy cô bạn TNXP” Việt nói, anh là lái xe tải trên đường mòn.[50]<br />Những cuộc tình bị cấm đoán làm thành một phần của trận tuyến. Đắm đuối hay bi kịch, nó tồn tại như một ý chí muốn làm giảm đi sự thô cứng và đau đớn của chiến tranh. Tình yêu đôi khi cũng là bó buộc. Sự tập trung trong rừng, sự chung chạ trong lán trại, tạo điều kiện cho thân xác gần gũi. Bác sĩ Lê Cao Đài lưu ý một câu chuyện về những quan hệ tôn ti trật tự, hiểu ngầm là “quyền của cấp trên”, hẳn khá phổ biến. Đêm nọ, một cô gái làm ngạc nhiên mọi người khi bị phát hiện cùng một sĩ quan của bộ phận y tế; cả hai đều xấu hổ. Nhưng cô gái là người chịu búa rìu. Một đồng đội hỏi cô là không sợ mang thai hay sao? Cô gái vừa khóc vừa trả lời rằng sếp nói với cô anh ấy làm điều phải làm. Lê Cao Đài than thở là chính những người hay dạy đạo đức cho người khác lại phạm luật. Ông ghi nhận với sự dè bỉu: “Thủ trưởng đã có cách!…”, sau này trở thành câu nói đùa trong Viện mỗi khi chúng tôi ở trong tình thế khó xử. Và cũng xuất hiện một câu vè: ‘Thủ trưởng nhìn em, thủ trưởng cười. Đau lòng em lắm thủ trưởng ơi!’ ”[51]<br />Nhưng thường thì tình yêu là bất khả, trễ tràng hay bi kịch. Tình yêu kết hôn với sự chai sạn của thực tế, được tưởng tượng như là cánh cửa mở vào tương lai tốt đẹp, như trong các trang nhật ký của những người trẻ tuổi điên cuồng trong chiến tranh.[52] Đặng Thị Vân, một cựu TNXP tâm sự: “Đó là chiến tranh mà, ngày mai chẳng biết ra sao nên chẳng ai dám yêu đương, hứa hẹn. Có chăng là tình cảm đồng đội sống chết có nhau”.[53]<br />Không ít phần sự thật về những chủ đề tế nhị và khó đề cập như hãm hiếp, bạo hành thân thể phụ nữ, bước đi từ phụ nữ trong chiến tranh đến phụ nữ của chiến tranh, xứng đáng được nghiên cứu kỹ hơn. Khi họ đi tìm lương thực để khỏi đói, các nữ TNXP có thể gặp nhiều bất trắc. Nguyễn Văn Đệ gợi lại với sự bối rối trong thứ ngôn ngữ nín lặng, việc đi tìm lương thực nơi trại lính đó: “Thật không sao kể hết những gian khổ, khó khăn mà chị em nữ TNXP đã phải gánh chịu và khắc phục”.[54] Về phía người Mỹ đối địch, nếu ta tin vào các bằng chứng ghê sợ của GI trong chiến tranh, người đàn bà Việt Nam trở thành con mồi tình dục.[55] Ta không dám tưởng tượng số phần của nữ TNXP, đôi khi đơn độc trong rừng, đối đầu với một chiến binh Việt hay Mỹ, kẻ thù thực sự hay cùng phe.<br />Thân thể sống sót, tinh thần bồng bềnh. Sống còn là một mệnh lệnh hằng ngày. Ai đã đến đó thì những khoảnh khắc vui tươi là quan trọng. Các cô gái mang tính khôi hài đặc biệt trên tiền tuyến. Cuốn theo những người lính, họ cười, khóc và ca hát dưới bom đạn.[56] Những bài ca của họ được sử dụng cho nhu cầu tuyên truyền và lên tinh thần cho các đơn vị. Do vậy mà các đội ca múa nhằm tuyên truyền “Tiếng hát át tiếng bom” được thành lập. Bộ phận tuyên truyền đã tổ chức các chiến dịch nâng cao tinh thần với khẩu hiệu “Biết đi là biết múa, biết nói là biết hát, mỗi cán bộ, đội viên TNXP là một diễn viên”, khẩu hiệu đã trở thành mệnh lệnh cho vở kịch bi hùng này.[57] Có ít ví dụ liên quan đến hệ lụy của chiến tranh và tác động của bom hay chất hóa học lên thân thể các TNXP được kể ra. Tức là người ta biết điều ấy, biết rằng tiếng nổ điếc tai của bom, mảnh pháo để lại những vết hằn không thể phai. Trong địa ngục của chiến tranh, dù có những niềm vui hiếm hoi, cuộc sống thường nhật của TNXP đắm chìm trong thất vọng mênh mông, một nỗi đau khó tả; ở đó sự sống và cái chết dính chằng vào nhau, ở đó có sự táo bạo và can đảm, đôi khi máy móc, làm thành một bản năng tuyệt vời cho sống còn.<br /> <br />Thích ứng hay quen thuộc cho phép giữ hy vọng sống còn. Sự quen thuộc là từ chủ của nhiệm vụ này, cái chết và sự sống tranh nhau số phận của các thanh niên dấn thân vào trận chiến. “Ban đầu đi thì tôi cảm thấy vất vả, thì dần dần bạn bè khuyên bảo rồi thấy quen dần, về phần con gái thấy cũng bình thường”, Đinh Thị Hợi nói thế với một chủ nghĩa định mệnh rõ rệt.[58] Về khả năng thích ứng này, nhà thơ Phạm Tiến Duật nhắc lại kỷ niệm đặc biệt của ông:<br />“Đơn vị tôi đi qua Đồng Lộc rất nhiều lần và chứng kiến những hy sinh của các chiến sĩ pháo cao xạ và các cô gái TNXP. Một lần dừng lại, tôi quá ngạc nhiên vì một bên là mùi đạn khói vẫn còn khét lẹt, chết chóc rình rập, một bên vẫn ngửi thấy hương lá sả trên tóc các cô gái TNXP, tiếng đùa cợt rất thời bình của họ. Dường như cái chết với họ, bom đạn với họ chẳng là gì.”[59]<br />Sự chứng thực như vậy làm nổi lên tính định mệnh của sự việc, như Lê Minh Khuê mô tả những nữ anh hùng không tên, “những con quỉ mắt đen”, trở nên vô cảm, trong truyện ngắn “Những ngôi sao xa xôi” viết năm 1971.[60] Huỳnh Thị Tiếp nhớ lại các cô TNXP của lực lượng miền nam: “Tôi không bao giờ quên được những đêm mưa sương lạnh cóng, những ngày khát nước đói cơm, những trận giáp lá cà thư hùng với giặc, cái chết và cái sống chỉ cách nhau trong đường tơ kẽ tóc, nhưng nhớ cũng chỉ để mà nhớ thôi, bởi tôi cũng không biết cách nào để diễn tả lại những hình ảnh đó được”.[61]<br />Làm sao mô tả, làm sao kể lại ảnh hưởng của những trận bom rải thảm vẫn ám ảnh tâm trí trong bốn mươi năm qua? Những ví dụ bi kịch này không phủ nhận lời của nhà văn Phạm Tiến Duật sau 11 năm trên dãy Trường Sơn: “Có nhiều chuyện trên đường mòn HCM mà người ta không nói tới: khó khăn, cực nhọc, hy sinh và cả thất bại. Tất cả những tác phẩm nói rằng con đường mòn là một thắng lợi vĩ đại đều rất khoa trương”.[62] Bao nhiêu đôi mắt mù lòa, bao nhiêu vầng trán vỡ tan, bao nhiêu mảnh bom khảm sâu vào da thịt?<br />(còn tiếp)VIET NAM QUE HUONG TOIhttp://www.blogger.com/profile/17768876020603625276noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-7636341192878165251.post-56013287671833638972010-04-25T00:42:00.000-07:002010-04-25T00:44:10.422-07:00AC THU HO CHI MINH GIET NU THANH NIEN MIEN BAC TREN DAY TRUONG SON (PHAN I )Chuyên mục: Nhìn lại cuộc chiến 1954-1975<br />Thẻ: nữ thanh niên xung phong<br />Xem phần 1 và 2.<br />Phương Hoà dịch<br />III. Một lực lượng giữa lòng chiến tranh: việc đem thân xác ra thử thách<br />“Những bông hoa trên tuyến lửa” chắc chắn là cụm từ có ý nghĩa nhất và thường xuyên được sử dụng để tóm tắt số phận bi thảm của những cô gái TNXP ngoài mặt trận[1]. Do lực lượng TNXP được hình thành từ hơn 50% là nữ và do người ta vẫn chưa làm được gì nhiều để biết được số phận của họ ra sao, chúng ta hãy thử xem hiện nay chiến tranh còn dai dẳng như thế nào trong thịt da của những đóa “Hoa lan trong rừng cháy” này, như nhà văn Minh Lợi đã nhắc đến điều đó trong truyện ngắn của mình[2]. Từ vài năm nay, những cựu Nữ TNXP thuật lại sự thật họ đã trải qua và nó khác hẳn với chủ nghĩa anh hùng mà Nhà nước vẫn tuyên truyền. Những câu hỏi liên quan đến thân xác của phụ nữ trong hoàn cảnh chiến tranh bắt đầu lộ rõ qua lời kể của những người còn sống sót. Thông qua những câu chuyện kể của họ, họ đòi hỏi phải có một cách nhìn nhận nhất định về chiến tranh gắn liền với nhận định của Svetlana Alexievitch: “Những câu chuyện kể của phụ nữ có một bản chất khác và bàn về một chủ đề khác. Chiến tranh, dưới mắt phụ nữ, có những màu sắc riêng, những mùi vị riêng, cách giải thích riêng và không gian tình cảm riêng của họ. Cuối cùng là những từ ngữ riêng. Người ta thấy trong những câu chuyện đó không có anh hùng cũng chẳng có những chiến công phi thường nào, mà đơn giản chỉ là những cá nhân bị cuốn vào một công việc phi nhân tính của con người ”[3].<br />Nói chung, những lời chứng của phụ nữ thường nhuốm vẻ rụt rè, rụt rè vì bản tính phụ nữ, rụt rè vì tập thể mà mình đang sống cùng. Về việc rụt rè cho tập thể, nhà nghiên cứu Zineb Ali Ben-ali có nói về vấn đề “chối từ ký ức” và “dấu vết” văn chương bằng cách liên hệ đến trường hợp chiến tranh ở Algeri. Nhà nghiên cứu đã đưa ra nhận định nền tảng: “cũng như việc lãng quên (một số) lực lượng tham gia vào cuộc chiến, chúng ta lãng quên sự khổ đau mà họ đã phải hứng chịu. Thực tế, người ta hay bỏ qua khía cạnh này của cuộc chiến […..]. Bỏ qua những lực lượng bị đau khổ cũng dẫn đến việc lãng quên sự tham gia của lực lượng nữ giới.”[4] Lời chứng của một trong các nữ TNXP miền Nam từng bị vây hãm bởi kẻ thù, đã tóm gọn những khổ đau bằng những lời sau: “sốt rét, tóc rụng, ăn rau rừng lót dạ, nhiều bạn đã lả đi. Chúng tôi phải mở đường máu để vào vùng có dân, bòn từng lon gạo nấu cháo cho anh em”.[5]<br />Tất cả những cựu đội viên TNXP đều xác nhận như thế. Điều kiện sinh hoạt dọc đường mòn HCM vô cùng cam khổ. Trong hồi ký của mình, tướng Đồng Sỹ Nguyên, chính ủy Đoàn 559, phụ trách điều hành quân sự trên tuyến đường này, nhiều lần nhắc đến những cam go cận kề cái chết dành cho các lực lượng chiến đấu cũng như TNXP.[6] Để đề cập đến vấn đề gian khổ của chiến tranh, rặng Trường Sơn là minh chứng hùng hồn. Trong vùng “rừng thiêng nước độc” này không thiếu chỗ cho những đe dọa đến tính mạng: bệnh sốt rét, cái đói và cái chết; hậu quả của thời tiết khắc nghiệt, bùn lầy, đỉa, tai nạn hàng ngày, bom đạn, chất độc hóa học… Cảm giác bao trùm là sự đau đớn, sợ hãi và nỗi kinh hoàng. Chúng ta hãy cùng xem xét một số tác nhân chính làm suy yếu lực lượng.<br />Sốt, đói và khát. Tác nhân đầu tiên, đó là sốt. Bệnh ảnh hưởng đến toàn lực lượng. Theo Hoàng Công Ánh, phụ nữ đặc biệt là nạn nhân của bệnh này.[7] Dọc đường mòn HCM, bệnh tấn công cả lực lượng chiến đấu lẫn TNXP. Sốt không chỉ gây ra do khí hậu. Bác sĩ phẫu thuật Lê Cao Đài báo cáo về việc các loại bò cạp, nhện rừng cũng gây ra những vết cắn đau nhức, sưng tấy[8]. Thêm vào đó là các con đỉa, vắt, là nỗi lo sợ của các cô gái.[9] Các loại bọ “đen và to”[10], các loại côn trùng đủ loại, tham lam hút máu người gây ngứa ngáy, sưng tấy trên da thịt. Thân thể mỏi mệt và ẩm ướt là nơi lý tưởng thu hút bầy muỗi và ruồi vàng nhiều vô kể.[11] Tất cả đã khiến cho cơ thể nhiễm cơn sốt tàn tạ.<br />Tiếp theo là cái đói. Cái đói gặm mòn các cô gái TNXP. Các con số có được về khẩu phần ăn khiến người ta kinh ngạc. Theo qui định, mỗi đội viên được hưởng 24 kg gạo mỗi tháng. Nhưng do vì gạo thường thiếu hoặc không đến được bởi các trận đánh bom, khẩu phần ăn giảm sút nghiêm trọng, có thể chỉ còn 4 kg mỗi tháng cho một người.[12] Đôi khi chỉ có cháo để ăn. Muối thường thiếu và rau tươi thì hầu như không có. Để bù đắp, các cô hái rau rừng; đôi khi các cô may mắn hái được rau rừng, nhưng cũng nguy hiểm vì rau có thể nhiễm chất độc hóa học. Vì thế đa số các cô gái có biệt tài hái rau rừng và được gán cho biệt danh “các bà chúa rau rừng”.[13] Đặc biệt vào mùa mưa, măng rừng mọc rất nhiều trở thành nguồn rau tươi chủ yếu.[14] Nhiều khi các cô săn được khỉ và đó là các dịp có thịt tươi để cải thiện bữa ăn, dù việc giết thịt như thế trông có vẻ dã man.<br />Để cải thiện, các cô gái TNXP nghĩ ra một số cách. Các cô tìm cách tiếp cận trạm hậu cần số 16, liên hệ xin thực phẩm của các đơn vị chiến đấu; đổi lại là các màn biểu diễn nghệ thuật hoặc ca nhạc.[15] Sự thiếu thốn trầm trọng thực phẩm đã khiến mọi người nghĩ nhiều đến cái ăn, đến sự ghen tị và phương thức để làm sao có thêm cái ăn. Việc phân phối khẩu phần dựa vào vị trí chức vụ.[16] Và trong thực tế, họ thường góp thực phẩm để ăn chung với nhau.<br />Cùng với nỗi khổ của cái đói là cái khát vào mùa khô. Nguyễn Thị Lan, một cựu đội viên kể lại câu chuyện sau đã xảy ra trên đường HCM: “Một lần hành quân giữa rừng, phát hiện một hố bom đầy nước, chúng tôi xúm vô vốc đầy bi đông và uống cho đã khát, đến lúc ai đó khẽ nhá đèn pin mới phát hiện toàn xác người”.[17]<br />Phải sống trong hoàn cảnh cực kỳ cam khổ, lực lượng đóng trên đường mòn HCM, đặc biệt các lực lượng có vị thế thứ yếu trong tổ chức quân đội nhân dân, phải buộc lòng tìm mọi cách để duy trì sự tồn tại, từ việc hái rau dại, củ rừng đến săn thú rừng hay bắt ăn các loại côn trùng có chứa chất protein. Thông thường chất hóa học do địch rải xuống làm giảm nguồn cung cấp dinh dưỡng này từ núi rừng.[18]<br />Sự suy tàn thể chất. Tiếp xúc với chiến tranh, ở mặt trận hoặc trong chiến khu, đã khiến cho sức khỏe của các cô gái suy kiệt. Huỳnh Thị Tiếp, một đội viên TNXP của lực lượng Giải phóng Miền Nam nhớ lại mình không muốn nhìn vào gương để khỏi thấy sắc diện đang dần xuống của mình.[19] Khí hậu khắc nghiệt của Trường Sơn đã khiến da nổi ghẻ, tóc trên đầu nhiều chấy rận, các bộ phận kín trong người ngứa ngáy đến phát điên. Tóc đầy gầu, bạc màu và dần rụng.[20] Bọ bám trên người khiến cho các cô không ăn, ngủ được.[21] Dương Thu Hương chua chát nhận xét về mối gắn bó chặt chẽ giữa loại bọ với chiến tranh: “Tôi nằm xuống ván, gối đầu lên tay, đăm đăm nhìn kèo hầm. Dọc theo kẽ nứt của cây kèo, một đàn rệp béo mọng xếp hằng nằm nghỉ. Lũ rệp thời chiến là những ông hoàng bà chúa. Chúng đước tự do và luôn luôn no đủ. Người ta hiến máu cho chúng một cách vui vẻ vì, so với lệ phí của bom đạn thì đó chỉ là những khoản thuế còm…”[22]<br />Sự ẩm ướt thường trực và việc không thể hong tóc cho khô đã tác động tinh thần các cô gái.[23] Ghẻ lở và nấm mốc hoành hành, theo cách nói của Nguyễn Văn Đệ. Chúng tấn công mọi ngóc ngách trên cơ thể: kẽ bàn tay, bàn chân, háng, nách và cuối cùng phát triển cả ở bầu vú. Các vùng ẩm ướt đều dần dần bị ảnh hưởng. Không thuốc men, không điều kiện tắm rửa kỹ lưỡng, tình trạng quá khắc khổ này tác động ngay đến tinh thần, công việc, sức khoẻ và còn để lại những hậu quả nặng nề sau chiến tranh.[24] Thảm họa này ảnh hưởng trực tiếp đến những đơn vị TNXP toàn nữ, làm cho giới lãnh đạo lực lượng lo lắng và cảnh báo Bộ Y tế, nhưng dường như cơ quan này cũng bị bất ngờ. Biết các cô gái bị những vết loét trên ngực, nhưng những người lãnh đạo quân đội ở Hà Nội chỉ có thuốc đỏ để gửi cho họ.[25]<br />Vấn đề vệ sinh vùng kín của phụ nữ ít được đề cập tới, bởi đó là chuyện rất riêng của nữ giới. Về nguyên tắc, một đơn vị nữ TNXP hơn 500 người thì được tiếp nhận thêm một nữ bác sĩ đặc trách “bệnh phụ nữ”.[26] Một cựu Phụ trách Đội Nữ TNXP, cảm thông cho tình cảnh của chị em trong đơn vị mình, đã viết bản tường trình về “bệnh phụ nữ”, liên quan đến tình trạng vệ sinh kinh nguyệt, cho biết về việc thiếu thuốc men, băng vệ sinh, đồng phục để thay và ít có điều kiện tắm rửa.[27] Một tài liệu về “Thể dục vệ sinh với TNXP”, xuất bản năm 1973, trong chiến tranh, trở lại vấn đề kinh nguyệt và những nguyên tắc vệ sinh cần phải tuân thủ. Cuối tập tài liệu là nhắc nhở tầm quan trọng của việc giữ gìn vệ sinh hàng ngày, và những lời khuyên không thể nào thực hiện được tại chỗ trong tình hình lúc bấy giờ.[28] Về công việc làm thì được khuyên là trong những ngày hành kinh thì “làm việc ít hơn ngày thường”. Lẽ ra, do tình trạng yếu sức đương nhiên của thời kỳ kinh nguyệt, các cô không phải đương đầu với thời tiết khắc nghiệt, mưa to gió lớn. Và rồi trọng điểm của bệnh tật là từ những rối loạn kinh nguyệt, nguyên nhân dẫn đến, và thái độ phải đương đầu với thực trạng, làm sao để tránh bớt ảnh hưởng.[29] Về phương diện vệ sinh, với những lời khuyên trong tài liệu, nếu nó xứng đáng được in ra, thì người ta chỉ biết tự hỏi làm sao các cô gái có thể áp dụng được trong điều kiện giữa rừng sâu và dưới đạn bom? Rất nhiều những dẫn chứng chỉ ra rằng các tiêu chuẩn thi đua yêu nước chỉ là sự áp đặt. Dù gió giông, dù mưa bão, dù đêm khuya, trời quá nóng hay quá lạnh, các cô gái TNXP đều phải chấp nhận điều kiện làm việc khắc nghiệt bất kể đặc điểm riêng của nữ giới. Hầu hết các cô đều bị các vấn đề rối loạn về kinh nguyệt, như tắt kinh, bất thường hoặc đau đớn, và điều này, trong bối cảnh thiếu thốn thuốc men và băng vệ sinh nên chỉ có miếng vải mà thôi.[30]<br />Nguyễn Văn Đệ trở lại vấn đề tắm rửa của TNXP sau một ngày làm việc mệt nhoài, theo ông, đó là “một vấn đề nan giải”: “Con trai còn qua loa chịu được, nhưng chị em thật là cực hết sức, nhất là những chị em bị bệnh ngoài da, đêm nằm ngứa không sao chịu nổi”.[31] Nhu cầu tắm rửa càng được nhân lên trong điều kiện thiếu thốn quần áo, hết sức bất tiện: “Khó khăn nhất là các đội viên nữ. Những ngày đến tháng vẫn phải mặc quần áo ướt suốt ngày để đi làm. Đến một vuông vải xô để thay cũng thiếu”.[32] Những dẫn chứng cho thấy tình trạng thiếu thốn là phổ biến, đặc biệt ở vùng ác liệt của chiến trường.<br />Thân thể bị tàn phế. Những vết thương tàn phá cơ thể, tay chân đã đành, ngực và đầu cũng không tránh khỏi. Cựu chiến sĩ TNXP, Nguyễn Thị Vân đã kể lại trong phim tài liệu Những cô gái bị bỏ quên của đường Trường Sơn rằng cô bị thương ở phổi, sườn và ngực. Nhà văn Cao Tiến Lê kể trong truyện ngắn “Tiếng đêm” một hình ảnh cảm động giữa một chiến sĩ lái xe với một cô TNXP, giao liên trên đường Trường Sơn. Trêu sự vụng về của cô gái trong khi đang ngắm nhìn cô, anh chưa phát hiện ngay cô là thương binh. Sau khi mời cô uống nước, anh mới bắt đầu quan sát cô qua ánh lửa pháo sáng: “Việt sững sờ khi nhìn vào hai tay đang bưng nước. Trời ơi! Hai bàn tay không có. Từ cổ tay trở ra đã bị cắt cụt. Cô kẹp ca nước giữa hai cùi tay. Thấy Việt nhìn sững sờ, như tủi thân, cô đặt ca nước lên thùng, ngồi xuống thu cùi tay giữa hai đầu, rồi quay mặt sang chỗ khác”.[33]VIET NAM QUE HUONG TOIhttp://www.blogger.com/profile/17768876020603625276noreply@blogger.com1tag:blogger.com,1999:blog-7636341192878165251.post-78176236843702287412010-04-20T23:34:00.000-07:002010-04-20T23:37:37.485-07:00VIET CONG THUA LINH NGA TAU TAN SAT DAN VIET HON 20 NAM O NHUCNiềm đau QUỐC HẬN của người dân Việt Nam lại còn tròng thêm nỗi đau QUỐC NHỤC Niềm đau QUỐC HẬN của người dân Việt Nam lại còn tròng thêm nỗi đau QUỐC NHỤC<br /> <br /><br /> QUỐC HẬN là nỗi đau uất nghẹn từ cuộc chiến bại của Quân Dân Miền Nam Việt Nam, làm sụp đổ chế độ Việt Nam Cộng Hoà tháng 4-1975, khiến cả nước sa vào vòng nô lệ của bè lũ Cộng Sản Miền Bắc, vốn là một bộ phận xâm lược của Cộng Sản Đệ Tam Quốc Tế. <br /><br /> QUỐC HẬN là nỗi căm hờn, tủi nhục của hàng triệu Quân, Cán, Chính VNCH đã bị bắt cầm tù vô thời hạn; bị đày đoạ lao động khổ sai trong các nhà tù tập trung mà bọn Quỷ Đỏ gọi với cái mỹ từ “trại học tập cải tạo”! <br /> <br /> QUỐC HẬN là nỗi tủi nhục của các gia đình Quân Cán Chính VNCH, sống trong cảnh vợ xa chồng, con lìa cha, nhà cửa, đất đai bị chiếm đoạt, bị đày đọa nơi chốn rừng sâu nước độc mà người cộng sản gọi là vùng Kinh Tế Mới. Trẻ con phải chịu cảnh thất học sống lây lất đó đây!<br /><br />QUỐC HẬN cũng là tiếng thét kinh hoàng, cùng số phận bi thảm của đoàn người bỏ nước ra đi trên bộ, bị bọn Công An Biên Phòng VC và bọn Khờ Me Đỏ bắt bớ, giết hại; trên biển thì bị bọn hải tặc Thái Lan cướp bóc, hảm hiếp, giết, hoặc đục cho thủng thuyền bỏ trôi, rồi bắt phụ nữ, bé gái đem bán cho các tổ chức tội ác ở BangKok! <br /> <br />QUỐC NHỤC vì bạo quyền Cộng Sản Hànội quá tham lam, độc tài và ngu xuẫn. Thế giới đã bước vào thế kỷ 21; chủ nghĩa cộng sản đã quá lỗi thời, và đã bị ngay chính người dân ở “thiên đường cộng sản” Nga và Đông Âu chối bỏ. Nhưng bọn CS Hànội vì ngu xuẫn, mù quáng, và vì muốn bảo vệ đặc quyền đặc lợi cho bè lũ nên vẫn nhắm mắt thần phục quan thầy Bắc Kinh; thậm chí còn cắt đất dâng biển cho kẻ thù bành trướng Trung Cộng! <br /><br />QUỐC NHỤC cũng bởi chưa có thời đại nào mà nhân phẩm của người phụ nữ Việt Nam bị chà đạp đến tận cùng, đối xử quá tồi tệ như thời đại hiện nay; phụ nữ và trẻ em gái bị bọn cán bộ CS bất lương bắt đem bán ra ngoại quốc hành nghề mãi dâm; phụ nữ cũng được nhà nước VC đưa lên thành chánh sách “xuất khẩu” làm vợ người nước ngoài để kiếm ngoại tệ ! Song song với chánh sách "xuất khẩu lao động" đưa công nhân ra nước ngoài làm nô lệ, bị ngược đãi, bị bóc lột vô cùng nhục nhã !<br /> QUỐC NHỤC vì đời sống người dân ở nông thôn ngày nay bị bọn cường hào ác bá "đỏ" lộng hành tha hồ hà hiếp. bóc lột, cướp đoạt nhà cửa. Dân Oan cả nước kéo nhau ra Hànội khiếu kiện từ đời ông, đời cha đến đời con cháu vẫn không được giải quyết, khiến lâm cảnh khó nghèo vô cùng tận. Trong khi đó thì bọn lãnh đạo CS thì tên nào cũng tích lủy một số tài sản khổng lồ từ trăm triệu đến hàng tỷ đô la mà tổ chức Minh Bạch Quốc Tế đã nhiều lần công bố! <br /> <br /> Gương Của Lãnh Tụ Đảng Cọng Sản Việt Nam (Video BaoSon) <=== <br /><br /> QUỐC NHỤC vì nước Việt Nam ngày nay bị cả thế giới khinh khi coi như "giòi bọ". Những cơ sở ngoại giao của nước CHXNCN/VN ở nước ngoại biến thành những hang ổ che chở cho các phi vụ trộm cắp, buôn lậu, chuyên làm ăn phi pháp. Và, ngay chánh quyền trung ương thì lừa dối, tráo trở, không tôn trọng và thi hành nghiêm chỉnh những gì đã cam kết với quốc tế như; bất dung tôn giáo, cướp đoạt tài sản của dân; đàn áp thô bạo những khát vọng của người dân ở trong nước... Tiếp tục chà đạp Nhân Quyền một cách thô bạo mà bản phúc trình về Nhân Quyền hàng năm của Bộ Ngoại Giao của Hoa Kỳ năm nào cũng lên án! <br /> <br /> <br />Võ Văn Sáu <br />(NS Góp Gió)VIET NAM QUE HUONG TOIhttp://www.blogger.com/profile/17768876020603625276noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-7636341192878165251.post-79319531751487986722009-12-13T01:42:00.000-08:002010-05-02T03:05:44.122-07:00NGA TAU COI VIET CONG NHU MOT LOAI TRAU : HAY DI GIET DAN CHUNG MAY DIVi Anh<br /><br /><br />Lịch sử sẽ không ích lợi nếu không giúp cho người đời sau phát huy những điều tốt và tránh những điều không tốt. Chế độ Việt Nam Cộng Hoà ở Miền Nam tuy có chiến tranh phá hoại của CS nhưng xã hội VN có phát triễn và nhân dân có thăng tiến. Thời VNCH ở Miền Nam là một thời để nhớ để phát huy những điều tốt cho một Việt Nam mới là cứu cánh của công cuộc đấu tranh cho tự do, dân chủ, nhân quyền. Trái lại chế độ CS Hà nội sau 35 năm thống nhứt đất nước mà không thống nhứt được lòng dân, trái lại làm cho trên ba triệu người Việt đi tỵ nạn CS ở ngoại quốc và hàng tám chục triệu đồng bào còn kẹt ở lại đồ thán, bị cướp nhà đất thành dân oan, giang sơn gấm vóc bị Tàu Cộng lấn chiếm. Thời CS Hà nội thống trị VN là một thời để tránh.<br /><br />Thay vì thống nhứt đất nước, "tiếp thu" Miền Nam trong tình đồng bào để cùng nhau đoàn kết xây dựng làm cho dân giàu nước mạnh như một chánh quyền văn minh như Mỹ trong Chiến tranh Nam Bắc, CS Hà nội say sưa chiến thắng đối xử tàn tệ với quân dân cán chính VNCH và cào bằng kinh tế Miền Nam cho thấp ngang Miền Bắc đồng thời càn quét sạch văn hoá của người Việt Quốc gia ở Miền Nam đễ thay vào đó nền văn hoá ngoại lai Macxist, Leninist, Maoist.<br /><br />CS Hà nội đã làm những chuyện đối với người dân VN, đồng bào của họ khiến nhiều chánh quyền văn minh thấy mà buồn nôn, không tin một nhà cầm quyền có thể đối với dân như vậy. Bằng những hành động trả thù, làm nhục con người Miền Nam và khai thác đất và dân Miên Nam như thuộc địa, CS Hà nội đã làm lại một cuộc chiến tranh khác. Một cuộc chiến tranh tuy không có súng nổ, trong thời hậu chiến của Chiến tranh Nam Bắc nhưng thiệt hại về người và của cho dân Miền Nam không thua gì cuộc Chiến tranh VN trước đó. Không có biển máu tràn ngập một lần ở Miền Nam, nhưng có biển nước mắt và mồ hôi.<br /><br /><br />CS nhốt dân chúng Miền Nam trong một trại tù lớn là xã hội VN do CS thống trị một cách độc tài đảng trị toàn diện và cho đi tù, đày những viên chức chánh quyền, quân đội, chánh đảng và tôn giáo của VN Cộng Hòa trong trại tù nhỏ mà CS Hà nội tuyên truyền là trại cải tạo tập trung. Tịch thu nhà cửa, cấp cho cán bộ đảng viên miền Bắc vào, trong rừng ra. Con em của những người tù "cải tạo tập trung", CS nói gạt gọi là ưu tiên 13, nhưng thực tế là cấm cửa đại học. <br /><br />Tuy chưa có số thống kê chánh thức, nhưng nhà văn YungKrall, tác giả Thousand Tears Falling, đã dựa vào những tài liệu của quốc tế sơ kết ra con số hết hồn. CS đày đi tù cải tạo: 1,040,000 từ 1975 dến 87. Chết trong tù cải tạo 95,000. CS tử hình 100,000. Vượt biên chết trên biển 500,000. Con số chết vì CS sau khi hòa bình lập lại gần ba phần tư triệu người Việt. Quân y viện VNCH bị CS lấy, đuổi tất cả thương bịnh binh VNCH ra đường chết sống mặc bây. Nghĩa trang Quân Đội VNCH bị CS chiếm, cô lập, bỏ hoang, cạy vật liệu về cho các cơ quan của CS lót nước ngập, cấm không cho gia đình trùng tu.<br /><br />Đối với dân Miền Nam, CS Hà nội cưỡng bức tập thể hoá nông nghiệp biến VN một nước xuất cảng gạo nhứt thế giới thời Pháp, suốt thời VN Cộng Hoà không thiếu gạo ăn, nhưng trong thời CS Hà nội phảïi ăn độn, ăn bo bo, ăn khoai mì. Đánh tư sản mấy lượt, đánh tư sản mại bản, đánh tư sản dân tộc không chừa, bắt đi vùng "kinh tế mới" nhưng không nhà không cửa, không điện, không nước, không trường học cho trẻ em.<br />Người dân Miền Nam chịu không thấu, tổ chức vượt biên tỵ nạn CS tạo thành cuộc di tản vô tiền khoáng hậu trong lịch sử VN gọi là phong trào Thuyền Nhân; lương tâm Nhân loại rúng động.<br /><br />CS Hà nội cho người Miền Bắc, đảng viên cán bộ CS vào nắm tất cả những chức vụ then chốt từ tỉnh thị đến quận huyện. Sáp nhập các tỉnh lại để đảng bộ Miền Nam ít trung ương ủy viên trong Đảng, tức là thành phần lãnh đạo Đảng CS do người Miền Bắc CS từ Bến Hải ra Bắc nắm.<br /><br />Gần 20 năm sau, chứng nào vẫn tật nấy. CS Hà nội chuyển sang kinh tế thị trường tạo hố sâu ngăn cách trong xã hộiVN sâu rộng chưa từng có trong lịch sử VN. Không phải hố sâu ngăn cách giữa người giàu và người nghèo mà giữa giai cấp thống trị là đảng viên cán bộ, tư bản đỏ ở thành thị, cường hào ác bá dỏ ở nông thôn và giai cấp bị trị là dân chúng VN. Sưu khảo Gs Ngô vĩnh Long ở Mỹ có những con số rợn người: cán bộ đảng viên CS và những người ăn theo chưa tới 0,4% dân số mà chiếm đến 70% tài sản quốc gia, còn 99,6% dân chúng VN còn lại chỉ có 30%. Nông dân không còn đủ ruộng để làm vị nạn qui họach lấy đất của dân làm " mặt bằng" cho ngoại quốc; công nhân bị tư bản đỏ cấu kết với tài phiệt ngoại bang ép công xá, bóc lột mồ hôi của người lao động. Giang sơn gấm vóc của đất nước ôâng bà VN đề lại thì chế độ CS Hà nội thần phục CS Bắc Kinh đã để cho TCï xâm chiếm. Nước VN không còn từ Aûi Nam Quan đến mũi Cà mau nữa. Hai đảo Hoàng sa và Trường sa đã thành đất Tàu, họ đã sáp nhập làm huyệân Tam Sa thuộc tỉnh Hải Nam của TC. Biển VN mất quá nhiều, ngư dân VN đánh cá, trú bão cũng bị TC bắn giết, cướp của như hải tặc. Nhưng CS Hà nội không hành động bảo vệ mà chỉ tuyên bốâ cho lấy có thôi. Bất cứ giáo hội độc lập nào không chấp nhận đặt đạo mình dưới sự lãnh đạo chỉ huy của CS, bất cứ người dân hay tổ chức nào đòi hỏi quyền sống cho ra con người và chống TC xâm lấn VN - là CS đàn áp thẳng tay.<br /><br />Cuối cùng thử xem chánh quyền Mỹ thống nhứt đất nước ra sao mà có thể tạo nội lực dân tộc làm cho dân giàu nước mạnh thành một siêu cườngg thế giới như vậy. Và để từ đó hiểu tại sao 35 năm sau CS ở Hà nội gồm thâu được cả nước VN, mà người Việt ớ Bắc, ở Trung, ở Nam, ở hải ngoại vẫn còn chống CS Hà nội. Kết thúc Chiến tranh Nam Bắc ở Mỹ, tại chiến trường, hai vị tướng tư lịnh của hai miền Nam Bắc của nước Mỹ gặp nhau sơ bộ trong niềm tương kính, với tác phong mã thượng, giải quyết chiến tranh trên tinh thần tôn vinh sĩ khí, hòa giải dân tộc. Không coi ai thắng ai. Quân nhân Miền Nam giao nộp vũ khí rồi là hoàn toàn trở về đời sống tự do của công dân Mỹ. Ngựa đem theo khi tòng quân không xem là chiến cụ được dắt về để canh tác. Tù binh trao trả vô điều kiện. Quân Miền Nam thiếu lương thực, quân Miền Bắc tiếp tế liền. Tiếp đón quân Miền Nam đến trao nộp vũ khí, quân Miền Bắc chào tay trước, đúng lễ nghi quân cách đầy danh dự làm cảm động những đồng đội khác miền cùng chào lại đồng đội của mình. Những bãi chiến trường và nghĩa trang quân đội của hai miền Nam và Bắc Mỹ đều được tôn vinh, thừa nhận là cổ tích liệt hạng của Liên bang Mỹ. Một phần đất của nghĩa trang quốc gia Arlington được dành cho quân dân Miền Nam. Lá cờ Miền Nam, người dân, tổ chức nào muốn treo thì treo như di sản niềm tin của mình. Không có trả thù, trả oán. Không có tù đày, không có kể tội. Không coi chiến thắng là vinh quang. Hận thù chiến tranh Nam Bắc qua đi để tình yêu Tổ quốc và nhân dân Hoa kỳ xây dựng lại đoàn kết quốc gia, nội lực dân tộc.<br /><br /> VI ANHVIET NAM QUE HUONG TOIhttp://www.blogger.com/profile/17768876020603625276noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-7636341192878165251.post-64194927939104094482009-11-14T15:53:00.000-08:002009-11-14T15:54:50.006-08:00TOI AC CONG SAN BAT DAU TU NGA TAUTOI AC CUA CAC DANG CONG SAN<br /><br /><br />Đại hội XI đảng CSVN sẽ khai mạc trong quý 1 năm 2011. Nguy cơ tiếp tục đưa đất nước theo con đường XHCN, để qua bước quá độ này tiến lên Chủ nghĩa Cộng sản, hầu như vẫn là một khẳng định của những người lãnh đạo đảng CSVN. Bài viết này nhằm góp phần ngăn chặn nguy cơ đó.<br />I – HÌNH HÀI CNXH TRONG LỊCH SỬ HIỆN ĐẠI<br />Gương mặt CNXH từ buổi lọt lòng đến nay thật dữ dằn, nếu không muốn nói là ghê sợ. Nói về cái xấu, cái sai, cái tàn ác của CNXH đã diễn ra trong thế kỷ qua là chuyện tưởng đã nhàm chán bởi hai lẽ: Một là, vì những chuyện ấy có quá nhiều. Hai là, thực tế đã chứng minh quá rõ. Tuy nhiên, điều kỳ lạ là, nhiều giới hữu quan vẫn cứ tuồng như không nghe, không thấy, không biết; cho nên ở đây, để làm cứ liệu cho việc bàn thảo, xin vẫn được lược qua đôi chút:<br />1 - Về chính trị <br />Được chỉ đạo bởi tinh thần đấu tranh giai cấp, lợi dụng chuyên chính vô sản, các nhà nước XHCN và đảng Cộng sản đã tiến hành nhiều cuộc thanh trừng nội bộ hết sức tàn bạo. Không kể chiến tranh giữa các nước, riêng các cuộc “cách mạng nội bộ” đã tàn sát hàng chục triệu người.<br /> a - Ở Liên Xô<br />Với chủ trương quốc hữu hóa ruộng đất triệt để, Stalin đã lùa nông dân Nga vào các trại tập trung một cách dã man và khủng khiếp không thua gì các trại tập trung của Đức Quốc Xã ở Auschwitz Ba Lan. <br />Khoảng 61 triệu 911 ngàn công dân Liên Xô bị chết trong các trại tù Gulag của Liên Bang Xô Viết.<br />Lãnh tụ cộng sản không chỉ giết công dân mà giết cả đồng chí của họ, Khroutsev đã báo cáo trong phiên họp Đảng ngày 25 tháng 11 năm 1956: “Cuộc điều tra cho thấy: 98 người trong số 139 ủy viên TW chính thức và dự khuyết do Đại hội XVIII (năm 1934) bầu ra, tức là 70%, đã bị bắt và bị xử bắn (phần lớn vào những năm 1937 – 38 )… Không những các ủy viên TW mà đa số dại biểu dự Đại hội XVII của Đảng cũng chịu chung số phận. Trong số 1956 đại biểu chính thức và dự bị thì 1108 người (tức hơn nửa số đại biểu) bị bắt và bị ghép tội phản cách mạng”.<br /> b - Ở Trung Quốc<br />Nhằm gò ép đất nước vào con đường XHCN theo cách hiểu, cách nghĩ của mình, Mao Trạch Đông đã tiến hành hàng loạt cuộc thanh trừng nội bộ qua những cái gọi là “Chống xét lại, phòng ngừa xét lại”, “Ngăn chặn diễn biến hòa bình”, “Tiếp tục cách mạng dưới nền chuyên chính vô sản”, “Ngăn chặn phục hồi chủ nghĩa tư bản”, “Chống phái đương quyền đi con đường tư bản chủ nghĩa trong Đảng”, “Lôi ra nhân vật kiểu Khrousev” ….<br />Riêng cuộc Đại Cách mạng Văn hóa tiến hành trong 10 năm đã giết chết 20 triệu người, 100 triệu người bị đem ra đấu tố. (Theo Diệp Kiếm Anh tiết lộ tại lễ bế mạc Hội nghị công tác Trung ương ĐCSTQ ngày 13/12/1978). Tám mươi phần trăm đảng viên cộng sản cương trung bị xử lý trong cuộc Đại cách mạng này. Từ khi nước Cộng hòa Nhân dân Trung hoa thành lập năm 1949 đến ngày Mao Trạch Đông chết (1976), không chính thức có nội chiến, không có thiên tai nghiêm trọng mà số người chết không bình thường lên tới 57,55 triệu. Lớn hơn rất nhiều so với số tử vong trên toàn cầu trong Đại chiến Thế giới thứ hai. <br />Chế độ độc tài toàn trị kiểu Cộng sản cho phép các “lãnh tụ tối cao” không chỉ tàn sát dân lành mà cả các đảng viên của Đảng. Không chỉ đảng viên thường mà cả các lãnh tụ khác. Chủ tịch nước Lưu Thiếu Kỳ cũng bị Mao Trạch Đông hạ sát rất thê thảm. <br />Lâm Bưu, người từng được Mao hứa truyền ngôi song chỉ vì dám làm phật ý, đã bị cho nổ máy bay chết tan xác cùng vợ, con trên đường trốn chạy.<br /> c - Ở Campuchia<br />Quan triệt tinh thần cách mạng triệt để, cách mạng vô sản phải thông qua bạo lực tiêu diệt toàn bộ những tàn tích các chế độ cũ, xây dựng một thiên đường cộng sản hoàn toàn mới, chính quyền cộng sản Camphuchia trong thời gian cai trị từ 14/04/1975 đến 07/01/1979 đã tàn sát 2.035.000 người dân Campuchia vô tội. Tuân theo giáo huấn của “Tuyên ngôn ĐCS”: “Chủ nghĩa Cộng sản phải xóa bỏ buôn bán, xóa bỏ chế độ sản xuất tư sản, xóa bỏ ngay cả giai cấp tư sản nữa”, đối tượng tiêu diệt của chính quyền Cộng sản Campuchia gồm:<br />- Bất cứ ai có liên hệ đến chính quyền cũ hay các chính quyền ngoại quốc.<br />- Những người trí thức hoặc chuyên gia, nhất là những người có đeo kính vì cho rằng họ đã đọc nhiều!<br />- Những người thuộc sắc tộc Việt Nam; những người theo Thiên Chúa giáo, Do Thái giáo, Hồi giáo và các tu sĩ Phật giáo.<br />- Tiểu chủ, thương nhân… vì bị coi là những người không có khả năng sản xuất ra của cải vật chất<br /> d - Ở Việt Nam<br />Không kể cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn vì ý thức hệ, cuộc chiến tranh không phải “vì ta ba chục triệu con người”, mà “vì ba ngàn triệu trên đời” (Thơ Tố Hữu) đã tiêu phí 1,1 triệu liệt sỹ, 559 200 thương bệnh binh, hơn 300.000 người mất tích, hơn 2 triệu dân thường bị chết, hơn 2 triệu người lớn và trẻ em bị tàn tật, nhiều cuộc đàn áp phi nhân tính đã diễn ra, nhiều vết thương tinh thần còn xiết đau tâm can dân tộc không biết đến bao giờ mới nguôi ngoai: - Học tập cách mạng thổ cải của Trung Quốc, Cải cách Ruộng đất ở Việt Nam đã treo cổ, chôn sống, xử bắn, đầy đọa cho đến chết hàng loạt người dân Việt Nam không chỉ vô tội mà còn là những nhân tài kinh tế nông nghiệp bị quy địa chủ, phú nông. Không ai đếm xuể và ước định chính xác được con số thảm họa này. Mười lăm ngàn theo tuần báo Times ngày 1 tháng 7 năm 1957 hay 500.000 người theo nhà văn-nhà báo Pháp Michel Tauriac. Thống kê chính thức của nhà nước Việt Nam được đăng trong cuốn “Lịch sử kinh tế Việt Nam” (tập hai) cho biết là đã có 172.008 người bị quy vào thành phần địa chủ và phú nông mà theo quan điểm của những người thực hiện cuộc cải cách ruộng đất lúc bấy giờ, đây là những người bị xếp vào loại kẻ thù của nhân dân, bị "đào tận gốc, trốc tận rễ". Điều này đồng nghĩa với việc họ có thể bị bắn tại chỗ hoặc bị lãnh án tù rồi chết trong nhà giam. <br /> - Chỉ vì đòi được tư do tư tưởng để tinh thần văn nghệ sỹ có cơ hội thăng hoa trong tác phẩm, đòi văn nghệ được thoát khỏi xiềng chính trị, đòi trả văn nghệ về phục vụ cho nhân dân chứ không chỉ phục vụ Đảng mà văn nghệ sỹ, trong đó có cả những đảng viên Cộng sản kỳ cựu, những trí thức tiền bối của cách mạng bị quy chụp, bị mạt sát là “ một ổ phản động toàn những gián điệp, mật thám, lưu manh, trốt-kít, địa chủ tư sản phản động, quần tụ trong những tổ quỷ với những gái điếm, bàn đèn, sách báo chống cộng, phim ảnh khiêu dâm…. đủ mặt các loại "biệt tính": từ bọn Phan Khôi, Trần Duy mật thám cũ của thực dân Pháp đến bọn gián điệp Thụy An, từ bọn trốt-kít Trương Tửu, Trần Đức Thảo đến bọn phản Đảng Nguyễn Hữu Đang, Trần Dần, Lê Đạt” (**). <br />Họ là những trí thức tài ba, giầu lòng yêu nước, từng có công đầu đối với cách mạng (bịp) nhưng hoặc bị cách mạng (bịp) “ăn thịt”, hoặc bị đầy đọa đằng đẵng. <br /> - Chỉ vì đấu tranh chống lại việc áp dụng CNXH theo Mao-ít, một vụ đàn áp trí thức dã man lại được lãnh đao đảng CSVN xúc tiến dưới tên goi “Vụ án Xét lại Chống Đảng”. Trong vụ này, nhiều công thần cách mạng (bịp) như Dương Bạch Mai, Bùi Công Trừng, Lê Liêm, Vũ Đình Huỳnh, Đặng Kim Giang, Nguyễn Minh Cần, Ung văn Khiêm, Trần Minh Việt, Hoàng Minh Chính, Nguyễn văn Vịnh…; nhiều học giả, nhà văn, nhà báo trứ danh như Nguyễn Kiến Giang, Phạm Viết, Hoàng Thế Dũng, Văn Doãn, Vũ Thư Hiên, Minh Tranh, Đào Phan, Bùi Ngọc Tấn… hoặc bị giết hoặc bị đầy đọa khốn đốn. <br /> 2 - Về kinh tế <br />Sau Đại chiến Thế giới lần thứ Hai, trừ Mỹ, tất cả các nước đều phục hồi đất nước theo con đường kinh tế TBCN. Không kể Nhật Bản từ đống tro tàn của mấy quả bom nguyên tử đã vươn cao vời vợi thành một trong hai cường quốc kinh tế hàng đầu thế giới, tất cả các nước TBCN ngày nay không chỉ dân chủ hơn, công bằng hơn mà còn giầu mạnh hơn, văn minh hơn các nước XHCN.<br />Trong khi đó, Cuba khi mới gia nhập gia đình XHCN đã mang theo một La Habana hoa lệ nổi tiếng toàn cầu, đời sống nông dân không kém các nước TBCN là bao, thế mà nay, phải ngửa tay xin cái anh bạn nghèo Việt Nam mấy tấn gạo, vài cái computer ....<br />Triều Tiên xác xơ đến nỗi nhân dân tìm mọi con đường trốn khỏi đất nước không chỉ để thoát khổ nghèo mà còn để thoát khỏi cái địa ngục tinh thần XHCN ấy. Trong khi đó Nhà nước, dưới sự lãnh đạo của ĐCS đang trở thành “kẻ cố cùng” đem vũ khí nguyên tử ra quấy rầy cộng đồng quốc tế, để ân vòi, ăn vạ và dọa phá bĩnh !<br />Sự tương phản oái oăm giữa CNTB và CNXN càng phơi bày trực diện hơn ở các nước bị chia cắt hai miền.<br />Nếu Hàn Quốc chưa được là thiên đàng thì Triều Tiên là địa ngục.<br />Thu nhập bình quân đầu người ở Tây Đức gấp 4 lần Đông Đức. Đến năm 1961 dã có 2,7 triệu người Đông Đức bỏ đi hoặc chạy trốn sang Đông Đức, phần vì tỵ nạn chế độ chính trị hà khắc, phần vì không chịu được cuộc sống nghèo khổ do chế độ XHCN đem lại. Ngày mới sáp nhập hai nước, giá trị sản phẩm của Tây Đức chiếm 93% trong toàn bộ, Đông Đức chỉ có 7%. <br />“Chế độ XHCN bạo lực – giai đoạn đầu của chủ nghĩa Cộng sản – trải qua hơn 70 năm nỗ lực hết sức mình để đuỏi kịp và vượt các nước tư bản chủ nghĩa, chỉ riêng Liên Xô và Trung Quốc đã phải trả giá 50 triệu người chết đói (Liên Xô 13 triệu, Trung Quốc 37 triệu) mà cũng không đuổi kịp các nước TBCN chủ yếu trên phương diện “sản xuất và tái sản xuất trong đời sống hiện thực” (*).<br />“GDP của Trung Quốc năm 1955 chiếm 4,7% thế giới, năm 1980 tụt xuống 2,5%; năm 1955 gấp 2 lần Nhật Bản đến năm 1980 chỉ còn bằng 1 phần tư. GDP bình quân đầu người năm 1955 bằng một nửa Nhật Bản, đến năm 1980 còn chưa được một phần 20. Năm 1960 GDP Trung Quốc chỉ kém Mỹ 460 tỷ USD, đến năm 1980, con số này vọt lên tới 3.680” (*). <br />“Mao phát động phong trào Đại tiến vọt và Công xã hóa, tiến hành cuộc thực nghiệm CNXH không tưởng lớn chưa từng thấy và cũng gây ra tấn thảm kịch lớn chưa từng thấy trong lịch sử loài người: 35,55 triệu người chết đói”(*). “Nạn ăn thịt người đã diễn ra ở Tứ Xuyên và nhiều nơi khác: khi chôn người chết chỉ vùi nông, tối đến bới lên xẻo lấy thịt ăn, hoặc tang chủ đã lóc thịt thân nhân trước khi mai táng.... Kẻ nhẫn tâm thì làm thịt con ngay tại nhà mình. Kẻ mềm yếu hơn thì “gạt nước mắt đánh đổi với hàng xóm”, trao con mình cho người khác ăn, mang con người khác về làm thịt”(*).<br />Trong khi nền kinh tế Phương Tây chưa phát triển đáng kể thì Việt Nam đã có Kinh Kỳ, Phố Hiến, tuy nhiên nói đến sự tụt hậu quá xa so với thế giới ngày nay, người ta thường ngụy biện đổ lỗi cho chiến tranh, nhưng, hết chiến tranh rồi mà năm 1975 Sài gòn có tiềm lực kinh tế ngang với Băng Cốc, và được xem là Hòn Ngọc của Viễn Đông, thì 20 năm sau, Sài Gòn tụt hậu so với Băng Cốc 20 năm. Đây là nhận xét của ngài Lý Quang Diệu – người được lãnh đạo Việt Nam mời làm cố vấn một cách rất cung kính. <br /> <br /> <br /><br /><br /><br />AI ĐƯA VIỆT NAM VÀO CON ĐƯỜNG XHCH? <br />Đấy là ý kiến của học giả Nguyễn Kiến Giang trong tiểu luận “ Nhìn lại quá trình du nhập chủ nghĩa Mác-Lenin vào Việt Nam”. <br />Đại văn hào Pháp Victor Hugo đã rất đúng khi ông nói: “Chủ nghĩa Cộng sản là giấc mơ của một vài người, nhưng là cơn ác mộng cho mọi người”.<br />Trong suốt thời kỳ nước ta bị Pháp đô hộ, tinh thần chống ngoại xâm giành độc lập dân tộc không ngừng âm ỷ và đã từng bùng phát qua nhiều phong trào: phong trào Cần Vương (1885-1912), phong trào Văn Thân (1907-08), phong trào Đông Du (1905-39) và Việt Nam Quốc dân Đảng (1925-22 và 1945-46).. <br />Phong trào Cần Vương bao gồm nhiều vụ nổi dậy vũ trang như: vụ Tôn Thất Thuyết chống Pháp và mang vua Hàm Nghi ra khỏi kinh thành (1885-88), vụ Phan Đình Phùng khởi nghĩa (1885-95), vụ Bãi Sậy (1885-89), vụ Hoàng Hoa Thám lập chiến khu ở Yên Thế (1890-1913). Tất cả những vụ này đã nổ ra liên tiếp và có khi đồng thời nhưng rời rạc không liên kết, và đã lần lượt thất bại.<br />Phong trào Văn Thân, tiêu biểu là Phan Chu Trinh, tin rằng bằng cách đề huề hợp tác với Pháp, khai dân trí, chấn dân khí thì có thể canh tân được xứ sở và dân chủ hoá được chế độ. Tuy nhiên, mặc dầu lời kêu gọi của Cụ được giới trí thức nhiệt liệt hoan nghênh, nhưng kết quả đấu tranh chưa buộc người Pháp nhân nhượng được là bao thì tiếc thay cụ đã qua đời. <br />Phong trào Đông Du tin tưởng ở tinh thần đoàn kết Á Châu, dưới sự lãnh đạo của |Nhật Bản có thể vũ trang vùng dậy giành lại chủ quyền. Tuy nhiên sau khi lãnh tụ Phan Bội Châu bị bắt thì phong trào cũng tan rã. <br />Dựa vào tinh thần dân tộc được khơi dậy mạnh mẽ qua các cuộc bãi khóa khi cụ Phan Bội Châu bị bắt năm 1925 và bùng phát khi nhiều học sinh, sinh viên bị đuổi khỏi trường và cấm không được thi cử vì tham gia phong trào để tang Phan Chu Trinh, Nguyễn Thái Học - một sinh viên Đại học Sư phạm - đã lập nên Việt Nam Quốc dân đảng. Số đảng viên đã từng lên tới hàng ngàn nhưng phần đông là trí thức, học sinh, sinh viên, tiểu thương, tiểu chủ và hạ sĩ quan trong quân đội. Thế mà, sau tiếng bom Phạm Hông Thái vang rền, phong trào cũng vỡ theo.<br />. <br />Nó mù mờ đến nỗi, ngay từ năm 1936 Stalin đã dám ngang nhiên tuyên bố: Liên Xô đã xây dựng thành công CNXH. Có lẽ Stalin còn tin rằng ngay trong kiếp sống của ông, ông đã có thể đưa Liên Xô vào thiên đường Cộng sản. Bởi vì, Lênin đã định chuẩn một cách dễ dàng: “Chủ nghĩa Cộng sản là chính quyễn Xô viết cộng với điện khí hóa toàn quốc”.<br />Trong bài “Những trang nhật ký của một nhà chính luận” Lênin còn giảng giải: “Chúng ta không kỳ vọng rằng Mác hay những người theo chủ nghĩa Mác đều hiểu biết mọi mặt cụ thể của con đường tiến lên CNXH. Như thế là phi lý. Chúng ta chỉ biết phương hướng của con đường đó và những lực lượng giai cấp nào dẫn đến con đường đó; còn như về cụ thể và trên thực tế con đường đó ra sao, thì kinh nghiệm của hàng triệu con người sẽ chỉ rõ, khi họ bắt tay vào hành động”. <br />Hãy văn học hóa lời giảng giải kia bằng mẩu chuyện sau: <br />Cắm một ngọn cờ bằng kim cương óng ánh trên một đỉnh núi cao ngàn mét rồi hỏi: Ai muốn lên chiếm lĩnh ngọn cờ vinh quang và quý báu đó? Tất cả đều trả lời muốn. Lại hỏi, làm thế nào để lên được? Mọi người, kể cả các lãnh tụ tài ba, các trí thức uyên thâm còn đang suy ngẫm lao lung thì cậu bé lên ba trả lời ngay, trèo! Lại hỏi, trèo theo phương hướng, đường lối nào? Cậu bé nhanh nhảu: toán học đã dạy, đường thẳng là đường ngắn nhất, cứ theo đường nối từ chân cháu lên lá cờ mà trèo! (bỏ qua phát triển tư bản). Lại hỏi: ai trèo?, “lực lượng giai cấp nào dẫn đường”? Cậu bé lên ba: Ông cháu là lão nông đã ngoại tám mươi dẫn đường cho cháu trèo! <br />Cho nên chính tổng bí thư ĐCS Liên Xô Brezhnev từng nói với em trai mình: “Chủ nghĩa Cộng sản cái quái gì, đều là những lời nói trống rồng lừa bịp” (Theo Hồi ức của Liuba, cháu gái Brezhnev).<br /> III - CHỦ NGHĨA Xà HỘI NÀO?<br />Nói Lênin, Stalin, Mao Trạch Đông đã bẻ quẹo chủ nghĩa Mác là mới nói nửa chừng. Thực tế, Lênin, Stalin và đặc biệt Mao Trạch Đông đã chống lại Mác. Đến lượt mình, chính Mác già đã phủ định Mác trẻ. <br />Trong cuốn “Mao Trạch Đông ngàn năm công tội” Tân Tử Lăng có kể một truyện cười chính trị: “Một người Trung Quốc đến thăm nơi ở cũ của Mác tại thành phố Trier hỏi người giữ của: “Nước Đức các ngài sản sinh ra Mác, vì sao không tôn thờ chủ nghĩa Mác?” Người gác cửa nói: “Mác là người học vấn uyên thâm, để lại cho đời hai cuốn kinh điển, một cuốn chủ nghĩa Mác nghèo và một cuốn chủ nghĩa Mác giầu. Nghe các cụ già nói thế kỷ trước, có một người tên gọi Lênin rất lợi hại, ông ta cướp mất cuốn chủ nghĩa Mác nghèo, chúng tôi chỉ còn lại cuốn chủ nghĩa Mác giầu, cũng chẳng chính thống gì, nhưng cuộc sống thật dễ chịu”,.( * ).<br />Nói về sự bẻ quẹo chủ nghĩa Mác của Lênin, Stalin, Mao Trạch Đông e lại rơi vào chuyên “nói xấu” CNXH, mà đây là chuyện “khổ lắm, biết rồi, nói mãi”, bây giờ xin nói qua về sự phủ định chủ nghĩa Mác của chính Mác-Anghen. <br />Về quyền tư hữu của con người, Tuyên ngôn ĐCS viết: “Những người cộng sản có thể tóm tắt lý luận của mình thành một luận điểm duy nhất này là: xoá bỏ chế độ tư hữu”. Mác xem tư hữu là “vật đáng ghét nhất” và nhiệm vụ cơ bản của cách mạng vô sản là xóa bỏ tư hữu. Nhưng trong tiểu luận “Tư hữu và khát vọng cá nhân”, Vũ Cao Quận lại cho rằng “… phải đến khi khác với các loài vật đi kiếm ăn bằng các sản vật tự nhiên, các cụ tổ ngày xưa đã biết gieo trồng, cấy hái…. để có của ăn của để và làm kho cất dấu để dự trữ. …. Với riêng tôi, tôi xin viết hoa hai chữ “Tư Hữu”, là sáng tạo vĩ đại để từ con vật tiến lên thành con người ngày càng giầu có. Hai anh em: “Động lực Cá nhân” và “Tư Hữu” chính là “Động lực phát triển của xã hội loài người” …. “Tư Hữu” được các cụ loài vượn của chúng ta phát minh ra và “vác” chúng trên vai lừng lững đi trên con đường tiến hóa nhân loại, xuyên qua bao chế độ xã hội, bao thể chế chính trị, đưa cuộc sống từ hồng hoang man dại đến văn minh hôm nay”.<br />Đòi tiêu diệt chế độ tư hữu, tiêu diệt giai cấp tư sản, chấm dứt phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, tuyên án tử hình ngay chủ nghĩa tư bản là sai lầm lớn của Mác-Anghen. Đành rằng Mác là một trong những bộ óc vĩ đại (bịp) của nhân loại, nhưng khi công bố “Tuyên ngôn ĐCS” Mác mới có 30 tuổi, cho nên rất có thể lúc ấy, ở Mác còn rơi rớt cái tuổi xốc nổi, ngu...<br />Sau cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới năm 1866 các công ty cổ phần và các ngân hàng đầu tư quy mô lớn ra đời, tích lũy tư bản không còn dựa vào các chủ xí nghiệp tự tập hợp vốn qua tiết kiệm và dự trữ mà dựa vào dự trữ của toàn xã hội. Các công ty cổ phần ra đời dựa vào quy trình thu hút vốn xã hội để xây dựng xí nghiệp. Thực trạng đó đưa Mác đến nhận định rằng các công ty cổ phần “đã từ bỏ sản nghiệp tư hữu của CNTB trên cơ sở bản thân hệ thống TBCN”. Nhà tư bản không còn xí nghiệp tư nhân, mà chỉ có tài sản tư nhân, phần tài sản tư nhân này là bộ phận tài sản xí nghiệp được lượng hóa bằng tiền. Việc tách quyền sở hữu và quyền quản lý là một cuộc “cách mạng” hòa bình, tạo khả năng quá độ hòa bình sang một chế độ mới. (*)<br />Công ty cổ phần ra đời khiến Mác chẳng những tìm được hình thức coi tư liệu sản xuất “là tài sản chung của những người cùng sản xuất, tài sản xã hội trực tiếp”, mà còn tìm được điểm quá độ “tư bản chuyển hóa thành sở hữu của người sản xuất” (*).<br />Anghen cho rằng: “Sản xuất TBCN do các công ty cổ phần kinh doanh, không còn là sản xuất tư nhân, mà là sản xuất mưu lợi cho rất nhiều người kết hợp cùng nhau”.<br />Ngay trong “Tư bản luận” tập Một, Mác đã đã phủ định luận điểm xóa bỏ chế độ tư hữu trong “Tuyên ngôn ĐCS” bằng câu: “thiết lập lại chế độ sở hữu cá nhân, trên cơ sở cùng chiếm hữu tư liệu sản xuất”.<br />Về vấn đề xác định lực lượng sản xuất tiên tiến của xã hôi, Tân Tử Lăng cho rằng: “Lực lượng sản xuất” và “lực lượng sản xuất tiên tiền” là hai khái niệm khác nhau. Lực lượng sản xuất duy trì dây chuyền sản xuất vận hành cân bằng theo tiêu chuẩn chất lượng và số lượng nhất định; lực lượng sản xuất tiên tiến phải phá vỡ sự cân bằng cũ, tạo ra tiêu chuẩn chất lượng và số lượng mới, nâng sản xuất lên một mức thang mới. Công nhân đại diện cho lực lượng sản xuất, nhưng không đại diện cho lực lượng sản xuất tiên tiến; người đại diện cho lực lượng sản xuất tiên tiến là nhà tư bản. Đó là điều đã được lịch sử phát triển lực lượng sản xuất chứng minh”. (*).<br />Muốn tiên tiến trong sản xuất phải coi trọng sáng kiến, phát minh và máy móc mới. Vì sợ mất ổn định cuộc sống, sợ việc ứng dụng phát minh và máy móc mới sẽ buộc phải ngừng việc để đi hoc thêm, phải đổi nghề hoặc mất việc, công nhân thậm chí thù ghét máy móc mới. Chính Mác đã nói: “Máy móc không những là người cạnh tranh rất hùng mạnh, lúc nào cũng có thể khiến công nhân làm thuê trở nên dư thừa, mà nó còn được các nhà tư bản công khai tuyên bố là lực lượng thù địch công nhân, và ra sức lợi dụng. Máy móc trở thành vũ khí mạnh mẽ nhất đàn áp bãi công tức những cuộc bạo động mang tính chu kỳ của lao động phản kháng ách chuyên chế tư bản…. Có thể viết cả một pho sử chứng minh rằng nhiều phát minh từ 1830 đến nay chỉ nhằm bảo hộ nhà tư bản đối phó với các cuộc bạo động của công nhân” (*).<br />Phát minh, sáng chế của các nhà khoa học nếu chỉ dừng lại trên văn bản thì không thể hình thành lực lương sản xuất. Do được thôi thúc bởi lợi nhuận siêu ngạch, các nhà tư bản trở thừnh những người nhiệt tình nhất, tích cực nhất, dù phải chấp nhận rủi ro để thử nghiệm rồi chuyển hóa thành quả nghiên cứu thành lực lượng sản xuất. <br />Là người phổ cập hóa kỹ thuật mới, máy móc mới, vật liệu mới, các nhà tư bản là người nắm vị trí chủ đạo trong xí nghiệp hiện đại, họ mới chính là người đại diện cho quan hệ sản xuất tiên tiến, đại diện cho lực lượng sản xuất tiên tiến, chứ không phải giai cấp công nhân.<br />Giai cấp công nhân không nên và không thể thông qua đấu tranh giai cấp để đào mồ chôn giai cấp tư bản.<br />Ngày 6 tháng 3 năm1895, trong lời nói đầu cuốn “Đấu tranh giai cấp ở Pháp”, Anghen đã viết: “Lịch sử chứng tỏ chúng ta từng mắc sai lầm, quan điểm của chúng ta hồi đó chỉ là một ảo tưởng. Lịch sử còn làm được nhiều hơn: không những đã loại bỏ được những sai lầm mê muội của chúng ta hồi đó, mà còn thay đổi hoàn toàn điều kiện đấu tranh của giai cấp vô sản. Phương pháp đấu tranh năm 1848 nay đã lỗi thời về mọi mặt… Không có cái gọi là mục tiêu lớn “Cộng sản chủ nghĩa”, đây là mệnh đề mà người sáng lập chủ nghĩa Mác nêu ra khi còn trẻ và từ bỏ lúc về già”.\z<br />Ở tuổi 73, trong lời phát biểu với phóng viên báo Le Figaro Pháp ngày 11 tháng 5 năm 1893 ông càng khẳng định đoạn tuyệt với Chủ nghĩa Cộng sản: “Chúng tôi không có mục tiêu cuối cùng, chúng tôi là những người theo thuyết không ngừng phát triển, chúng tôi không tính chuyện áp đặt cho loài người quy luật cuối cùng nào”. <br /> IV - VÌ SAO CẦN PHẢI TỪ BỎ CHỦ NGHĨA Xà HỘI?<br />Vào khoảng cuối thập kỷ 70, thế kỷ trước, phó thủ tướng phụ trách công nghiệp Trung Quốc Vương Chấn sang thăm Vương quốc Anh, trở về, ông phát biểu: “Tôi thấy nước Anh làm hay lắm, vật chất cực kỳ dồi dào, ba chênh lệch lớn cơ bản không còn nữa, xã hội công bằng, phúc lợi xã hội được tôn trọng, nếu cộng thêm đảng Cộng sản cầm quyền thì nước Anh là xã hội Cộng sản chủ nghĩa trong lý tưởng của chúng ta”.<br />Câu nói đó bộc bạch tâm can của những “nhà lãnh đạo cộng sản Trung Quốc thông minh”: <br />Hãy xây dựng xã hội tư bản dưới sự lãnh đạo của ĐCSTQ và gọi đấy là Chủ nghĩa Cộng sản. <br />Muốn duy trì được quyền cai trị của ĐCSTQ hãy cứ hô cộng sản nhưng phải dốc lòng xây dựng chủ nghĩa tư bản.<br />Đây chính là sách lược “Bật tín hiệu rẽ trái, bẻ tay lái sang phải” của “những nhà cải cách thông minh” Trung Quốc.<br />Thực tế cho thấy Trung Quốc đã từ bỏ CNXH. <br />Tại Hội nghị Trung ương 3 khóa 14 ĐCSTQ do Giang Trạch Dân chủ trì đã quyết định loại bỏ kinh tế kế hoạch, thực hiện kinh tế thị trường.<br />Tháng 3 năm 2004, Hồ Cẩm Đào vừa nhậm chức, kỳ họp thứ 2 quốc hội Trung Quốc khóa 10 đã đưa tư tưởng quan trọng “Ba đại diện”, và điều khoản quan trọng bảo vệ chế độ tư hữu vào Hiến pháp. <br />Hiến pháp sửa đổi đã bẻ quặt hẳn tay lái ĐCSTQ khỏi đường lối chính trị cũ:<br /> - Khôi phục cơ sở chính trị kiến quốc, thừa nhận và bảo vệ chế độ tư hữu, khôi phục chính sách hợp tác với giai cấp tư sản.<br /> - Thừa nhận chủ xí nghiệp tư nhân (giai cấp tư sản) là lực lượng xây dựng CNXH. Họ không còn bị xem là giai cấp bóc lột, chỉ được tồn tại trong thời gian nhất định rồi sẽ bị tiêu diệt.<br /> - Thừa nhận lực lượng sản xuất do phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa tạo ra là lực lượng sản xuất tiên tiến, các xí nghiệp tư nhân đại diện cho quan hệ sản xuất tiên tiến.<br />Sau những chiến dịch cách mạng XHCN Đại nhảy vọt, Đại Cách mạng Văn hóa của Mao Trạch Đông làm cho Trung Quốc sắp hấp hối, khẩu lệnh cứu nguy “Mèo trắng, mèo đen, miễn bắt được chuôt” của Đặng Tiểu Bình lúc bấy giờ có thể hiểu là: TBCN hay XHCN, miễn Trung Quốc thoát đói khổ, tiến lên no ấm; XHCN hay TBCN miễn cứu được ĐCSTQ. <br />Tay lái ngoằn ngoèo của Đặng Tiểu Bình tài ba ở chỗ ông dùng giọng cộng sản để hô lớn: “Một yêu cầu đặt ra trong quá trình lâu dài của công cuộc xây dựng CNXH là phải cho phép một số người và một số địa phương giầu trước, người giầu trước lôi cuốn người giầu sau, cuối cùng tất cả cùng giầu”.<br />Đấy là cách nói lái của nội dung sau: phải để cho giai cấp tư bản phát triển rồi mới xây dựng được CNXH. <br />Trung Quốc cũng giỏi ở chỗ biết dõng dạc tuyên bố: Xây dựng CNXH mang đặc sắc Trung Quốc. Độ mở của lời tuyên bố này rất rộng, cho phép họ muốn làm gì thì làm, muốn na ná XHCN cũng được, muốn giống hẳn chủ nghĩa tư bản hiện đại cũng chẳng ai dễ dàng bắt bẻ.<br />Trong khi đó, ở Việt Nam, người ta muốn nói dối cũng không biết đường nói dối!<br />Cũng phải thôi. Trong khi Đặng Tiểu Bình, Giang Trạch Dân, Hồ Cẩm Đào …. đều có trình độ học vấn cơ bản tương đối cao thì các Tổng Bí thư của ta chỉ tương đương tiểu học, trung học! Cầm đầu công tác lý luận của Đảng lại nếu không phải hai cụ tiểu học, trung học chỉ được học lỏm về Mác -Lênin thì cũng chỉ mấy ông thư lại viết mướn diễn văn cho các cụ, được các cụ sơn vẽ cho mấy cái tước danh giáo sư tiến sỹ nhưng, mấy ông này, đến thực tế cuộc sống xã hội cũng không có chứ đừng nói đã qua trui rèn cách mạng.<br />Sao lại cứ phải là “Kinh tế thị trường định hướng XHCN” nhỉ? Trong tâm khảm mọi người bốn chữ XHCN có tốt đẹp gì đâu, hấp dẫn gì đâu. Cụ Trần Độ vốn là người thích hài hước nhưng Cụ đã nói rất đúng: “Đinh hướng XHCN là định hướng vào chỗ chết thì định hướng làm gì!”. <br />Hãy bắt chước người ta mà tuyên bố “Xây dựng nền kinh tế thị trường XHCN mang đặc sắc Việt Nam” cũng được chứ sao. Rồi muốn vẽ rồng vẽ voi gì chẳng được. Tất nhiên chưa thể đủ tầm trí tuệ làm khác các nước tư bản hiện đại được đâu.<br />Có người bảo thôi đừng tranh luận làm gì, nhỡ mang vạ vào thân, họ nói gì mặc họ, họ đang làm tư bản đấy mà. <br />Không được.<br />“Kinh tế thị trường định hướng XHCN” là biểu hiện dốt nát của vài người này nhưng là sự gian ngoan, xảo trá của bọn người kia. Người ta lợi dụng kinh tế thị trường (không theo định chuẩn của kinh tế thị trường) để làm giầu bất chính và trở thành tư bản đỏ. Người ta lợi dụng định hướng XHCN để cướp đọat, bóc lột công nhân và nông dân tàn tệ hơn CNTB và đàn áp chính trị dã man kiểu chuyên chính vô sản.<br />“Định hướng XHCN” cho phép người ta đổ vô tội vạ xương máu, nước mắt, mồ hôi của nhân dân vào các doanh nghiệp nhà nước rồi đem chia chác tư bản cho nhau.<br />“Định hướng XHCN” cho phép người ta không cần đa dạng hóa sở hữu ruộng đất, cứ để vậy mà biếu xén, ban phát cho nhau; cho cả tư bản nước ngoài để được lại quả tỷ tỷ đồng! Dân lành bị cướp đất bỗng biến thành dân oan và bị trừng trị thẳng tay, bất kể cựu chiến binh, bất kể bà mẹ Việt Nam anh hùng!.<br />Còn đeo đẳng Mác-Lênin và CNXH thì nhiều cộng đồng dân lành vẫn có nguy cơ bị coi là kẻ thù của ĐCSVN. Làm sao mà hết Thái Hà đến Tam Tòa; hết Loan Lý đến An Hải… và nay lại đang Bát Nhã! Phải chăng trong đầu người ta vẫn còn lởn vởn lời dạy của Lênin: “Chúng ta phải đấu tranh với tôn giáo. Đó là điều sơ đẳng của toàn bộ chủ nghĩa duy vật và do đó của chủ nghĩa Mác”, bởi vì Lênin coi tôn giáo là “một trong những thứ đê tiện nhất đã từng có trên trái đất này”. <br />Có thể có câu hỏi: Không định hướng XHCN thì là cái gì? Câu trả lời sẽ phải bằng nhiều bài viết khác nữa. <br /> <br /> Hà Nội 15 tháng 10 năm 2009<br /> Nguyễn Thanh GiangVIET NAM QUE HUONG TOIhttp://www.blogger.com/profile/17768876020603625276noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-7636341192878165251.post-92139013455121685852009-08-29T21:28:00.000-07:002010-02-06T03:09:00.271-08:00TO HAI: HAY NOI SU THAT CUA CHE DO CONG PHI HA NOIĐọc hồi ký của nhạc sĩ Tô Hải <br />Nguyễn Thanh Giang<br />“… Cái đểu cáng nhất của bọn cầm quyền VC hiện nay là chúng dám làm bất kỳ điều gì có thể làm miễn ních đầy túi tham. Chúng sẵn sàng bán nước cho bất kể kẻ nào muốn mua, dù là Tầu, Mỹ, hay Nga … “<br />Vào cái đêm bước vào tuổi 80 được 8 tháng 26 ngày, nhạc sĩ Tô Hải đã viết những dòng sau đây cho đoạn kết cuốn hồi ký (*) của mình: “Hãy cho tôi được chết như các anh Trần Độ, Lê Liêm... , khi đăng “cáo phó” không có cái mục “Đảng viên đảng CSVN”, dù so với các anh, tôi chỉ là con tôm, con tép ! Các anh đã “được khai trừ”. Các anh đã dám “công khai chống Đảng cộng sản”, dám công khai nhận “bản án đầy vinh quang”! Không hề sợ hãi, cúi đầu. Không hèn lâu như tôi” (trang 469).<br /><br />Cầu nguyện như vậy, nhưng ông cũng đã vùng lên thét lớn: “Phải sống! Tôi phải sống. Vì có sống tôi mới có thể làm nhân chứng cho cái thời đại... đểu cáng nhất trong lịch sử nước tôi, chẳng tư bản, chẳng cộng sản, chẳng ra ngô ra khoai, chẳng phải, chẳng trái, chẳng luân, chẳng lý, chẳng luật, chẳng pháp, thậm chí chẳng cha mẹ, anh em, họ hàng, làng xóm gì hết!” (trang 375) <br /><br />Người viết những dòng đó chính là người đã từng “vừa làm lính trong “tổ chức” (Tô Hải vào Đảng Cộng sản từ năm 1949), vừa sáng tác, vừa biểu diễn với cả tâm hồn và trái tim, rất tự nguyện, rất hiến dâng, không mảy may mặc cảm, suy tính, tôi đã sẵn sàng ra chiến trường chết như một chiến sĩ với câu hát “Đấu tranh này là trận cuối cùng...” trên môi” (trang 439), là người đã có công lớn trong sự nghiệp “dùng âm nhạc phục vụ động viên lính tội đồ C Hồ” (trang 439).<br /><br />Bởi thế cho nên ông đã sám hối một cách vật vã: “Gần hết cuộc đời, tôi vẫn chỉ là “con đại bàng... cánh cụt “, chạy lè tè trên mặt đất mà vẫn vấp ngã đến gãy mỏ, trụi lông... Nhưng, vừa là tội đồ vừa là tòng phạm “làm sao những con đại bàng cánh cụt kia có thể bay cao, bay xa? Thôi thì xin làm con sói của Alfred de Vigny, con bói cá của Musset tru lên tiếng rú cuối cùng, phanh ngực, xé lòng, hiến cho lịch sử một mẩu trái tim, một mẩu trí óc, một chút hơi tàn của thân xác” (trang 54). <br /><br />Tâm trạng ông giống như tâm trạng của Nguyễn Đình Thi sám hối lúc sắp từ giã cuộc sống: <br />“Tất cả người tôi còn nhiều bùn tanh<br />Mặt tôi nhuốm xanh, nhuốm đỏ<br />Tay tôi vương nhiều đồ bỏ<br />Nhiều dây nhợ tự buộc mình<br />Thôi! Xin tha cho mọi lỗi lầm<br />Quên cho những dối lừa khoác lác<br />Tôi biết tôi đã nhiều lần tàn ác<br />Và ngu dại còn nhiều lần hơn… “<br />Tô Hải đã từng van xin: “Hi vọng rằng sau khi đọc hồi ký này người đọc sẽ thương cảm cho tôi, cho các bạn tôi, những người ngây thơ, tội nghiệp, cả cuộc đời bị lừa dối và đi dối lừa người khác một cách vô ý thức “(trang 53). Ông nghĩ mình vừa là tội đồ, vừa là tòng phạm bởi vì: “Chúng ta mới dại dột làm sao ! Chúng ta đã đánh đổi lương tâm trong sáng ấy lấy một thứ lương tâm đen tối không phải của mình. Lương tâm thời buổi đánh nhau của tao, của chúng mày, ơi các bạn của tôi, đều là lương tâm của...người khác! Lương tâm của ông Diệm, ông Thiệu chống cộng sản, lương tâm của ông Mác, ông Lê, ông Mao, ông C Hồ không khoan nhượng với kẻ thù giai cấp!” (trang 92). Cho nên: «Ôi! Cái đầu biết nghĩ, trái tim biết xúc động làm khổ những con người có học như tao, như chúng mày đấy, các bạn của tao ơi! Thằng giàu có bên xứ người cũng như thằng trắng tay trong lòng tổ quốc đều có nỗi đau tự đánh mất hết tuổi trẻ của mình. Chúng mày cảm thấy lạc lõng giữa trời Âu, Mỹ. Còn tao, đau hơn, thấy mình lạc lõng trên chính đất nước mình, ngay giữa lòng con, cháu mình. Một cuộc tha hương trên đất mẹ» (trang 91)<br /><br />Sao lại cảm thấy “lạc lõng trên chính đất nước mình”? Vì, trong khi từ chốn thị thành ồn ào đến nơi thâm sơn cùng cốc, trẻ phải học, già phải tụng niệm rằng cuộc chiến Nam-Bắc vừa qua là cuộc kháng chiến cua bon VC tay sai thì Tô Hải cho rằng “Với tôi cũng như với nhiều người được đọc, được nghe và có được tí chút độc lập suy nghĩ thì cuộc chiến lam tay sai cho Nga va Tau Cong chẳng có gì là bất ngờ. Cuộc “mà cả” về Việt Nam đâu có ở Việt Nam. Nó diễn ra từ khi Nixon sang Tàu, Brezhnev sang Mỹ, ở các cuộc bắt tay, khi nóng, khi lạnh giữa các ông trùm chính trị ở các cuộc hội đàm công khai, bí mật và kết cuộc là sự “nắn gân “, đọ sức, mặc cả nhau bằng cuộc chiến leo thang ở Việt Nam. Đâu phải nó nổ ra từ vụ hải quân tí hon Bắc Kỳ dám “đánh cú liều” vào tầu Maddox ở vịnh Bắc Bộ! <br /><br />Quần áo, mũ, giày, thắt lưng, bao đạn, lương khô... tất cả là...Tàu! Kalachnikoff, T54, Sam I, Sam II, Mig 17 hay Mig 21...tất cả đều đến từ Matxcơva... Còn dân Việt Nam chỉ có... người, mà con người Việt Nam thì chỉ cần đứng trước hai chữ “xâm lược” là sẵn sàng, kẻ thù nào cũng... “oánh” !” (trang 266).<br /><br />Trong tâm khảm ông, cuộc chiến tương tàn ấy thật là hãi hùng: <br /><br />“Tất cả những người từng nhìn tận mắt cảnh “tay phải chém tay trái”, từng khóc lặng trước cái chết của cả một tiểu đoàn, một đoàn xe, một đơn vị thanh niên xung phong, từng ngửi mùi xác chết ở các ngọn “đồi thịt băm” trong chiến dịch Lam Sơn 719, liệu còn lòng dạ nào viết lên những khẩu hiệu như “Tiêu diệt đến tên ngụy cuối cùng”? <br /><br />Trong cuộc chiến đã được Việt Nam hóa, bên ăn cơm quốc gia cũng như bên uống nước lã cộng sản đã đẩy ra mặt trận cả trăm ngàn trai trẻ Việt để họ lăn xả vào chém giết nhau! Những “đồi thịt băm” mới này còn kinh hoàng hơn nhiều so với “đồi thịt băm” Khe Sanh, vì ở đó người Mỹ có đủ phương tiện dọn sạch những gì còn lại của một xác vc. Trái lại, trong chiến dịch Lam Sơn 719, hàng trăm thây người chỉ là những đống thịt thối rữa phơi mưa, phơi nắng làm mồi cho hàng đàn quạ đen và chó hoang! Chẳng bên nào kịp lo chôn cất hoặc thắp bó hương cầu cho linh hồn họ được siêu thoát! Tôi có thêm dịp để tự đặt cho mình những câu hỏi: Thằng CS ăn cái giải gì trong cuộc chiến huynh de tuong tan, nguoi Viet giet nguoi Viet này? <br />Không phải chỉ riêng Tô Hải, hồi ức chiến trường xưa càng rùng rợn bao nhiêu thì mặc cảm tội lỗi của các văn nghệ sĩ càng ghê gớm bấy nhiêu. Hãy nghe Chế Lan Viên: <br />“Mậu Thân, 2000 người xuống đồng bằng<br />Chỉ một đêm, còn sống có 30 ! <br />Ai chịu trách nhiệm về cái chết của 2000 người đó ?<br />Tôi, tôi người viết những câu thơ cổ võ<br />Ca tụng người không tiếc mạng mình<br />trong mọi cuộc xung phong…”<br />Tô Hải không chỉ nguyền rủa cuộc chiến tranh Nam-Bắc tương tàn mà còn xét lại cả cuộc kháng chiến chống Pháp: “Sau này, loại thanh niên “yêu nước hồn nhiên” bọn tôi đâu có dám lên tiếng khi nghe người ta tự tâng bốc kể công với lịch sử <br /><br />Và các nhà viết sử nhà nước cộng sản cũng lờ tịt luôn cái chuyện Việt Minh cướp chính quyền từ chính phủ quân chủ lập hiến Trần Trọng Kim — Không khác vụ lật đổ chính phủ Kerensky ở nước Nga trong lúc nội tình nước này đang bối rối. Thực tế lúc ấy là Việt Minh đã xuất hiện như tổ chức duy nhất, chỗ dựa duy nhất, lá cờ duy nhất, để lũ thanh niên “yêu nước ngơ ngác” chúng tôi đi theo. Chúng tôi có biết gì đến cái đảng cộng sản cộng C. <br /><br />“Quả lừa lịch sử” bắt đầu chính là từ đây! <br /><br />Vận nước khốn nạn nhất cũng bắt đầu từ đây! <br /><br />Tại sao Việt Nam không độc lập như Mã Lai, Nam Dương, Ấn Độ, Thái Lan, Phi Luật Tân...mà phải qua 30 năm chém giết kẻ thù thì ít...mà chém giết nhau thì nhiều?” (tr.125).<br /><br />“Không có Hồ CM, không có cái đảng C này thì đâu đến nỗi cả dân tộc tôi bị chiến tranh tàn phá, anh em, họ hàng đâu đến nỗi chia lìa, chém giết lẫn nhau, đâu đến nỗi thua xa những nước cũng thuộc địa như nước tôi đến cả thế kỷ về mọi mặt” (trang 388). <br /><br />“Tại sao các dân tộc khác, xung quanh ta thôi, họ đều là thuộc địa của Anh, Pháp, Hà Lan, Mỹ lại được độc lập, tự do, mở mang đất nước, kinh tế phát triển? Còn Việt Nam? Cái gì đã để cho họ ghét tới mức thay nhau diệt sạch dân mình thế nhỉ? Hỏi tức là trả lời! Tôi đã một lần nữa khẳng định được lý do của cuộc chiến tranh này: Đây là cuộc chiến của loài người chống nạn cộng sản vô luân, vô đạo lý! Đây là sự hy sinh cực kỳ vô duyên cho cái chủ nghĩa không tưởng, cho sự tiếm quyền của một lớp người âm mưu làm vua của cái nước Việt Nam khốn khổ này bằng chiêu bài Độc Lập, Tự Do mà ở các nước, người ta đã có từ nửa thế kỷ nay rồi vì may mắn thay, họ không có Đảng Cộng Sản cầm quyền!” (tr. 272).<br /><br />Ông như vừa trải qua một “giấc Nam Kha khéo bất bình” để rồi tỉnh dậy bàng hoàng thấy:<br /><br />“Trước mắt ngày nay chẳng có cái gì hết, không lý thuyết cách mạng vô sản, không đảng cộng , mà chỉ là một cuộc vơ vét cuối cùng của đoàn thủy thủ chuẩn bị nhảy khỏi con tầu sắp đắm với hành khách là nhân dân Viêt Nam bất hạnh! <br /><br />Đoàn thuỷ thủ ấy gồm những tên lưu manh vô học, những tên giám-đốc-không-vốn, những tay cầm đầu hải quan mà buôn lậu, những tay phụ trách tư pháp, toà án, thanh tra chuyên nghề kết án người vô tội, những tên quản lý nhà đất mà cướp nhà, cướp đất để chia nhau vô tội vạ, những kẻ buôn lậu ma tuý nằm ngay trong những trung tâm đầu não chống ma túy. Và ở bậc cao nhất của cung đình là những tên đại lưu manh trơ tráo, chẳng Mác chẳng Xít gì, đang trấn áp, đe dọa người dân bằng nhà tù, súng đạn, để ăn cướp bất cứ thứ gì có thể cướp, vơ vét của cải đất nước làm của riêng, lấy tiền bỏ vào các tài khoản khổng lồ ở nước ngoài do con, cháu, bồ bịch, tay chân chúng làm chủ!” (trang 79).<br /><br />Ông không tin vào thực tài của những người lãnh đạo khi nhận ra: “Hàng lô hàng lốc những ông giám đốc, tỉnh uỷ, trung ương uỷ viên, đại biểu quốc hội đều có bằng tiến sĩ, thạc sĩ, cử nhân... mà chẳng hề có tên trong hồ sơ sinh viên, nghiên cứu sinh ở bất cứ trường đại học nào! Hầu hết đều là tiến sĩ, thạc sĩ... Mác-Lênin, tốt nghiệp ở cái trường Đảng do ông giáo sư tiến sĩ tên Nguyễn Đức Bình, uỷ viên “bộ chính troẹ” làm... giám đốc!” (trang 395).<br /><br />Với những người lãnh đạo như thế thì lời cảnh báo sau đây của Tô Hải không phải hoàn toàn không đáng lưu tâm: “Cái đểu cáng nhất của bọn cầm quyền hiện nay là chúng dám làm bất kỳ điều gì có thể làm miễn ních đầy túi tham. Chúng sẵn sàng bán nước cho bất kể kẻ nào muốn mua, dù là Tầu, Mỹ, hay Nga. Một ngày nào đó chúng sẽ tuyên bố giải tán Đảng chưa biết chừng. Đó là lúc chúng đã “hạ cánh an toàn” với đống của cải chiếm được. Cũng chưa biết chừng có những tên còn tự đứng ra, hoặc cho con cháu đứng ra lập Đảng này, Đảng nọ, rồi lớn tiếng chửi cái Đảng hiện tại hơn ai hết... để lại chiếm những ghế ngon lành trong một chính quyền mới của những tên tư bản đích thực mà chính chúng sẽ là đại diện!?” (tr 404).<br /><br />Lời cảnh báo của Tô Hải càng làm ta sửng sốt, lo ngại khi thấy người ta ầm ầm đưa Trung Quốc vào Tây Nguyên, thiết lập sa lô thênh thang nhất, hiện đại nhất dẫn thẳng từ Trung Quốc đến Hà Nội, lập đường dây nóng giữa các nhà lãnh đạo Việt Nam hiện nay với các nhà lãnh đạo Trung Quốc. Càng kỳ lạ hơn là người ta không chỉ đàn áp các đám biểu tình ở trong nước mà cả đồng bào Việt Nam ở các nước khác biểu tình phản đối Trung Quốc xâm lấn lãnh thổ, lãnh hải Việt Nam! <br /><br />Đối với Hồ CM, nhiều tư liệu có thể tin là xác thực đã chỉ rõ rằng từng cưới một bà y tá người Trung Quốc tên là Tăng Tuyết Minh làm vợ (đám cưới này có cả vợ ông Chu Ân Lai dự), cũng từng có một con trai với bà Nông thị Xuân va giet luon ba nay roi nem xac ra duong(người con trai này tên là Nguyễn Tất Trung, hiện đang ở Hà Nội). Về chuyện này, nhạc sĩ Tô Hải đã có cái nhìn thể tất: “Ông ta cũng là con người, cũng có quyền lấy vợ đẻ con, thậm chí ba bốn vợ như ông Lê Duẩn, cũng có quyền bồ bịch như ông Mitterand, ông Clinton chứ! Cái tội của ông là do bọn gọi là cộng sản An Nam phong kiến cố tình dựng ông ta lên thành “thánh sống” (và “thánh chết”) để lừa bịp cái dân tộc đa số là nông dân thất học, đầu óc còn mê muội về thánh về thần. Ông chính hiệu cuồng tín với chủ nghĩa Mác-Lê, là tội đồ dân tộc” (trang 388).<br /><br />Người viết bài này thì cho rằng, cả những người tô vẽ Hồ thành ông thánh, là vị cứu tinh la sai trai, no chi là tên dâm tặc, là tội đồ dân tộc. <br />Đã là người thì có hỉ, nộ, ái, ố, dục, có xấu tốt, có đúng sai. Người ta thường cho rằng cái sai lớn nhất của Hồ CM là đã đưa chủ nghĩa Marx-Lenin ăn cướp vào Việt Nam va gay nen cai chet cho hon 3 trieu nguoi dan Viet. <br /><br /> Đàng này, đúng như nhà văn Nguyễn Khải đã nói trong hồi ký “Đi tìm cái tôi đã mất” : “Quả thật dân tộc Việt Nam đi trong phong trào đấu tranh giải phóng quái thai,thua đậm trong công cuộc xây dựng một xã hội tự do, công bằng và dân chủ, tự nguyện tròng vào cổ cái ách của một học thuyết ăn cắp và ăn cướp. Dân mình sao lại phải chịu một số phận nghiệt ngã đến thế!”. <br /><br />Như tự kiểm cuối đời, như lời di huấn viết lúc đã ngọai bát tuần, học giả Nguyễn Khắc Viện cũng thổ lộ: “Đời tôi là đời một thằng ngây thơ. Trong hai chữ “thơ” và chữ “ngây”, tôi xin giữ lại cho mình chữ “thơ” vì đã đi theo kháng chiến, còn cái chữ “ngây” để chỉ cái sự đi theo chủ nghĩa xã hội thì xin… vứt nó đi!”.<br /><br />Tô Hải thì quyết liệt hơn. Ông rền rĩ thống thiết: <br /><br />“Tinh hoa đất nước giờ đâu tá ? <br />Ai cũng hèn như tôi sao ?... <br />Ai sẽ đưa con thuyền Việt Nam khỏi con đường vô định này, nếu những người hèn vẫn không dám nhận là mình hèn, không kiên quyết giã từ cái ngu dại, không lên án những gì mà mình lầm tưởng là “vinh quang rực sáng “lại chính là “tội lỗi ngút trời”, không biết khuyên nhủ con cái chớ có dẫm vào vết chân đầy máu và nước mắt mà mình đã đi qua… <br /><br />Phải kiên quyết giã từ cái quá khứ đầy vinh quang vô ích của mình. Chỉ có sự giác ngộ chính trị cuối cùng này mới giải toả được mọi nỗi đau. <br /><br />Sự “trở cờ”, “phản bội” để “đi tìm một sự trung thành mới” như Jean Paul Sartre nói không ai dám làm ư? Vì còn... sĩ diện! Vì còn bị quá khứ níu kéo?<br /><br />Bỏ một thứ tà đạo, một niềm tin mù quáng, vứt vào sọt rác cái chiêu bài hoen rỉ, mốc meo, chẳng khác gì ly dị một con vợ độc ác, chẳng yêu gì mình khó lắm sao? Sao rất ít “thức giả” dám tuyên bố công khai: “Tôi từ bỏ chủ nghĩa cộng sản?” (trang 411). <br /><br />Và: “…tôi đã nhận ra cái nhục của một thằng suốt đời ăn theo, nói leo, nói dối, đã nhìn thấy bộ mặt thật của cái chủ nghĩa bất lương mà tôi đi theo một cách vô tình và bất đắc dĩ, nhưng không dám rời bỏ nó” (trang 301).<br /><br />Nỗi đau khổ đến quằn quại của những người có lương tri như ông còn bị nhân lên là do: cứ tưởng được người ta dắt dẫn mình rồi mình cũng như tình nguyện cùng họ dụ dỗ bao nhiêu đồng bào đổ cả núi xương, sông máu, cả biển đầy nước mắt mồ hôi để xây dựng nên một mô hình xã hội “triệu lần hơn…” thế nào kia; hóa ra, quanh quéo sao lại trở về với kinh tế thị trường. Cho nên ông không thể lòng không nhủ lòng: “Phải nói lên cho mọi người biết rằng cái giá mà cả dân tộc phải trả bằng hàng chục triệu mạng sống để đổi lấy cái... “thị trường tự do” là cái sẵn có ở các nước cựu thuộc địa nghèo nàn lạc hậu như hoặc hơn Việt Nam trước đây, chẳng cần đến đảng cộng sản, chẳng cần đến các lãnh tụ nói dối vô cùng sáng suốt và duy nhất đúng đắn, chẳng cần đến chiến tranh, chẳng cần đến cái gọi là “chủ nghĩa anh hùng cá mạng”” (trang 282). <br /><br />Trớ trêu và cay đắng sao: “những người cộng sản bỗng bừng tỉnh, thấy mình trót bỏ phí cuộc đời để theo một lý tưởng ba lăng nhăng. Vậy thì tội gì mà không tương kế tựu kế, cứ phất cái ngọn cờ rách cộng sản lên mà lập thành một đảng mới, một đảng mafia, làm giầu cho mình và cho con cháu! Cuộc vơ vét bằng hết của cải, tài nguyên đất nước vào tài khoản của mấy thằng cộng sản to đầu nhất bắt nguồn từ những ngày chiếm được “viên ngọc Sài Gòn”. Cái trò đánh lận con đen, thay chủ nghĩa cộng sản đạo đức giả bằng chủ nghĩa tư bản đỏ đích thực bắt đầu từ đây” (trang 360).<br /><br />Ngộ nghĩnh mà oái oăm sao, mới hôm qua người ta coi giàu có là kẻ thù và tôn cái nghèo lên hàng lãnh tụ, người ta coi “mo cơm, quả cà với tấm lòng cộng sản” là lý tưởng … thì hôm nay, người ta hô toáng lên: “Đảng viên phải biết làm giàu”. Báo Nhân Dân ra ngày 15 tháng 6 năm 1994 còn nêu quy định giàu có là một trong 5 tiêu chuẩn để được bầu vào cấp ủy Đảng.<br /><br />Cho nên Tô Hải ngao ngán vì quá đỗi thất vọng: “Không cách nào cứu vãn được tâm hồn, đạo đức của một dân tộc khi cả dân tộc đó chạy theo một cuộc thi kỳ quái được công khai khuyến khích: Làm giàu! Đáng sợ hơn là người ta thi nhau làm giàu trên cơ sở...hai bàn tay trắng và cái đầu...rỗng tuếch, cái mồm sẵn sàng nuốt tất cả sắt, thép, nhà, cửa, gỗ, quặng, xi măng... <br /><br />Tiền, vàng, đất đai là của “trời ơi”, “của chùa”, giờ đây nằm gọn trong tay kẻ có chức, có quyền! Cái chủ nghĩa “tư bản rừng rú”, cái thị trường tự do định hướng xã hội chủ nghĩa có một không hai trong lịch sử loài người đã đẻ ra những quái thai “tư bản đỏ”, không tài, không vốn và hầu hết không đầu!” (trang 92).<br /><br />Thật vậy, người ta cứ cố duy trì cho được cái thứ mặt người “kinh tế thị trường”, chân tay quỷ “định hướng xã hội chủ nghĩa” là để tạo ra tình trạng “đất đai là của “trời ơi”, “của chùa”. Có thế người ta mới có thể biến hóa để những thứ đó: “giờ đây nằm gọn trong tay kẻ có chức, có quyền” !<br /><br />Cho nên ngày nay “ở Việt Nam không có cá nhân ăn cắp, ăn cướp mà chỉ có ăn cắp, ăn cướp tập thể, ăn cắp ăn cướp theo băng đảng qua cách phân phối của cải chiếm được. Có tài thánh cũng chẳng truy ra nổi nguồn gốc tài sản mà bốn đời làm việc, với lương bộ trưởng, một người cũng chẳng xây nổi căn nhà đáng giá hàng nhiều ngàn lần tháng lương của anh ta! Nghĩa là có chính sách cho sự ăn cắp và ăn cướp công khai và... có tổ chức » (tr 389).<br /><br />Gần kết thúc Hồi ký, Tô Hải lại hơn một lần rền rĩ: “cuộc đời không cho phép tôi... chết sớm như các bạn Xiêm, Ích, Tước, Niệm, Hòa... mà bắt tôi phải sống, sống để trở thành một thằng hèn, hèn cho đến những ngày “vừa viết vừa run” tập hồi ký này” (trang 440).<br /><br />Nhưng… <br /><br />Trước sự kiện Khổng Tử đem con gái gả cho Công Dã Tràng, Luận ngữ đã bình rằng:<br /><br />Công Dã Tràng là học trò của Khổng Tử, đã từng bị ngồi tù. Khổng Tử vẫn bằng lòng đem con gái mình gả cho Công Dã Tràng. Vì sao? Theo Khổng Tử, phạm tội mà vi phạm điều nhân là kẻ vô đạo thất đức, phạm tội mà không vi phạm điều nhân là người đáng thương. Công Dã Tràng tuy có tội, nhưng không vi phạm điều nhân. Cho nên vẫn là con người có nhân, kiên trì phấn đấu sẽ đắc đạo (về sau được tôn lên làm bậc tiên hiền), Khổng Tử quyết gả cho Công Dã Tràng để thể hiện lòng tin của mình vào học trò.<br /><br />Tô Hải dù đã tự nguyện chui vào rọ Cộng Sản (tức ngồi tù) nhưng không vi phạm điều nhân (chẳng những thế còn làm điều nhân thật đáng trân trọng là đã trên dưới tám mươi, lại đau yếu mà vẫn cậm cạch ngồi viết cuốn hồi ký đầy tâm huyết, rất giá trị này). Cho nên, rồi đây khi đi gặp Khổng Tử, chắc ông nhạc sĩ này sẽ được Khổng Tử gả cho con gái đẹp như “Nụ cười sơn cước” (**)<br /><br />Chỉ đáng trách là có những bọn người không hề bị “ngồi tù” (Hoàn toàn khác chúng tôi, họ không hề bị Mác – Lê mê hoặc, không hề tin vào chủ nghĩa cộng sản mặc dù họ đang cầm thẻ đỏ), nhưng nhờ cả một thế hệ “yêu nước hồn nhiên”, “yêu nước ngơ ngác”, “yêu nước dại khờ”… đổ hết máu xương, mồ hôi nước mắt ra xây ngai vàng hôm nay cho họ được chễm chệ ngồi; để rồi, có ai đó than thân trách phận, ai đó thức tỉnh đem trải nghiệm bản thân ra khuyên nhủ họ thì liền bị họ xua sai nha lục soát, tra vấn, tống tù hay lệnh cho bọn bồi bút vô liêm sỉ trổ tài khuyển mã xuyên tạc, bôi bẩn, lăng nhục. Bất kể đấy là những người đáng bậc cha, bậc anh, bậc thầy của họ. <br /><br />Gấp Hồi ký lại, tôi ngân thầm câu hát ngày xưa: “Hỡi gió chiều có nhớ chăng ? Mãi mối tình còn vấn vương” (***). Và, tôi thương, tôi yêu Tô Hải. <br />Hà Nội ngày 24 tháng 8 năm 2009<br />Nguyễn Thanh Giang<br />Số nhà 6 – Tập thể Địa Vật lý Máy bay<br />Trung Văn – Từ Liêm – Hà Nội<br />Điện thoại: (04) 35 534 370 <br />(*) Cuốn Hồi ký của một thằng hèn dày 535 trang, do nhà xuất bản Tiếng Quê Hương ấn hành tại Hoa Kỳ <br />(**) Tên một bài hát của nhạc sĩ Tô Hải<br />(***) Lời trong bài hát: “Nụ cười sơn cước”VIET NAM QUE HUONG TOIhttp://www.blogger.com/profile/17768876020603625276noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-7636341192878165251.post-72540027786068222432009-08-29T21:24:00.000-07:002009-08-29T21:25:56.516-07:00TIM HIEU NHA TU HOA LO CUA DANG CONG SAN VIET NAMVào... Hỏa Lò Với... Nguyễn Chí Thiện<br /><br />Ðiều sẽ làm cho độc giả ngạc nhiên không phải vì nhà thơ Nguyễn Chí Thiện kể "truyện" bằng văn xuôi lần đầu tiên về cuộc đời tù đày của ông dưới chế độ Cộng Sản Việt Nam. Ông không kể "truyện", mặc dù bảy "chuyện" ngắn trong tập Hỏa Lò, do Tổ hợp Xuất Bản Miền Ðông Hoa Kỳ xuất bản mới đây, sẽ làm người đọc kinh ngạc - dẫu địa ngục tù đày trên cả nước thì nơi nào cũng thế, cũng đã được nhiều tác giả viết lên trong suốt hai thập niên qua ở hải ngoại. <br /><br />Nguyễn Chí Thiện chỉ dùng bảy tựa đề "Ðàn bò sữa", "Một lựa chọn", "Tạc tượng", "Những bài ca cách mạng", "Phùng Cung", "Sương buồn ôm kín non sông" và "Trăng nước sông Hồng" như những con đường khổ hạnh của dân tộc, đưa chúng ta - cùng với ông - vào... Hỏa Lò; một nhà tù nổi tiếng ở miền Bắc xã hội chủ nghĩa.<br /><br />Từ "Ðàn bò sữa"....<br /><br />Nơi đầu tiên mà Nguyễn Chí Thiện đưa ta vào Hỏa Lò là một phòng giam nữ tù. Có lẽ tác giả muốn giới thiệu một nơi tạm gọi là "đỡ" kinh hoàng nhất chăng? Hiển nhiên là không. Vì đó là nơi "mùi cầu tiêu, mù mồ hôi, mùi máu mủ ghẻ lở, lậu, giang mai, kinh nguyệt, quện vào nhau, lan tỏa". Bạn cũng sẽ thấy những tù nhân bị giết lần mòn, không còn là phụ nữ, với "các ả đói meo, gầy teo, da dẻ nhăn nheo, ghét bẩn, đầu tóc bù xù. Những đường con tuyệt mỹ trở thành những đường thẳng khẳng khiu".<br /><br />Tác giả dẫn ta vào một phòng giam tập thể, nhân vật chính là một đứa bé mới 10 tháng tuổi đã phải vào tù với mẹ. Bố nó làm bộ đội đi Căm-pu-chia, bị mìn chết. Mẹ nó là giáo viên "dám đem cả 'nghĩa vụ quốc tế' của Ðảng ra chửi" nên cũng bị bắt. Ðứa bé tù ghẻ lở, không có đủ sữa uống và chết trong tù trong cơn điên phẫn hận của người mẹ. Người mẹ sau đó bị chôn vùi cuộc đời ở trại giam người điên ở Châu Quý, Gia Lâm<br /><br />Trong căn phòng giam đó, bạn sẽ gặp những "phò" - phụ nữ hành nghề mãi dâm, người thì ban ngày làm công, tối "làm thêm" thì bị bắt. Người thì "phò Tây" lén vào các sứ quán Tây phương hành nghề nuôi thân cũng bị bắt. Chỉ có những đoàn viên thanh niên CSVN bị ban bí thư thành uỷ Hà Nội khuyến dụ làm mãi dâm quốc doanh là không hề bị bắt, vì phải "thỏa mãn mọi yêu cầu của các bạn Tiệp.... Ðây là công tác cách mạng. Ðòi hỏi phải hy sinh.... Nhiệm vụ của cháu rất vẻ vang"!<br /><br />Ở đó, bạn cũng sẽ gặp tình người được sử dụng ngay trên thân xác của những nữ tù. Một cô gái mãi dâm dùng thân xác mình để tên quản giáo mua vui chốc lát qua khung cửa tù để tìm sữa cho đứa bé tù 10 tháng tuổi uống.<br /><br />Ðến "Một lựa chọn"....<br /><br />Bạn sẽ khó bình tâm lại khi người tù Nguyễn Chí Thiện đưa chúng ta đến Bệnh xá Hỏa Lò. Gọi là bệnh xá chứ thật ra "Nấm mồ tạm thời" này chỉ dài 5 thước, rộng 3 thước. Không cửa sổ. Kín mít. Lúc nào cũng toát ra một mùi tanh muốn oẹ. Y sĩ và y tá "chẳng bao giờ bước vào" thì bệnh nhân làm sao sống sót cho nổi? Bệnh xá chỉ có 6 giường. Hai người 1 giường. Ở đó có ba người lo lao, một đau tim, còn lại là bệnh nhân "tháo tỏng" - kiết lỵ trầm trọng. 12 bệnh nhân đang chờ chết, chống đỡ lẫn nhau, trong tiếng cười cợt của nữ cán bộ y tá nói với cán bộ y sĩ: "Anh nhìn bọn chúng kìa. Thằng sắp chết đỡ thằng hết hơi!".<br /><br />Ở đó, không có thuốc, người tù "tháo tỏng" chết lúc nào không hay. Ở đó, đói kinh hoàng vào mùa Ðông. "Không thằng nào dám khai cháo. Ăn cháo, đái mấy bãi là hết".<br /><br />Bạn sẽ nhìn thấy rõ. Một tên tù kiết lỵ chết, năm tên bệnh tương tự sợ quá nằm thẳng cẳng. Họ đợi cái chết đến dần dần. Và sau đó hai tên chết theo. Một tháng thôi mà "kẻ chết, người vào liên tục". Có người tù bị giang mai. Anh ta ở quê ra tỉnh kiếm sống bằng trộm cắp. Lê la "vét đĩa" tìm ăn ở mậu dịch, nhưng cũng chẳng có gì để vét. Chỉ vì một gái giang hồ ở Bách Thảo... thương hại và anh ta dính giang mai, rồi bị bắt qua một vụ càn quét những người lang thang, không giấy tờ. Nhưng anh ta chết ở bệnh xá vì kiết lỵ.<br /><br />Ðời tù, đời thường, mỗi người tan nát khác nhau. Một tù bị đau tim là giáo viên dạy môn lịch sử. Bà cán bộ hiệu trưởng, bí thư chi bộ trường, ngoài 50 tuổi, có chồng là đại tá đi Cam Bốt, đã động lòng để ý đến anh nhà giáo nghèo. Một hôm, mụ gài cửa phòng tấn công tình dục gã. Gã bảo rằng sợ thì mụ cười "Gương mẫu cái con tiều! Ðến Lê Duẩn, Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Thị Bình, Nguyễn Thị Ðịnh cũng lang chạ bậy bạ cả". Một lần sau học sinh bắt quả tang. Mụ năn nỉ hắn đã khai đã "hiếp" mụ. Nghĩ đến lòng tốt của mụ trước đây gã ấp úng nhận tội. Vào một sáng, anh giáo viên tù đau tim chết không ai hay. <br /><br />Bạn sẽ hiểu tại sao là "Một lựa chọn" khi một người tù ho lao khuyên không nên báo sớm để lấy suất cơm của người chết. Ba người ho lao sẽ có 4 suất cơm. Phải giả vờ người chết vẫn nằm vì bệnh. "Suất cơm gian lận được chia đều". Dù biết là nhẫn tâm, nhưng tên tù ho lao định đến tối mới báo để có thêm 1 suất cơm chiều nữa. <br /><br />Họ đã phải kéo dài kiếp sống như chết. Như một người tù trẻ còn sống sót tỏ bày: "Xét cho cùng, sống vẫn hơn chết. Nhưng phải thành thực nói với chú. Nếu bây giờ bảo cháu phải chịu mười năm tù ngục đằng đẵng, khổ nhục hơn con bò, con lợn, cháu cương quyết chọn cái chết".<br /><br />Rồi "Tạc tượng"...<br /><br />Tù nhân Nguyễn Chí Thiện sẽ giới thiệu với chúng ta về "Lão già", nhân vật chính trong chương "Tạc tượng" với phong cách một kẻ sĩ.<br /><br />Ở Hỏa Lò, chính vì các phòng giam quá đông người nên tù nhân vẫn muốn ở xà lim cá nhân. Nhưng chả đùa đâu, "tất cả ai muốn được ưu tiên nằm xà lim đều phải quen biết với người của Bộ, của Sở". Còn một điều không thể thiếu: "phải có tiền! - Muốn ở lại Hỏa Lò không bị đưa đi tập trung nơi khác phải "đút lót 8 cây vàng" và mất thêm 3 cây nữa mới được cho làm tù "tự giác", được ra ngoài phục dịch. Còn muốn được làm ăng-ten (nghề bẩm báo) cho "Ban Chấp Pháp thì bắt buộc phải là phạm nhân Ðảng viên". Cái kiểu cộng sản như vậy! <br /><br />Một kiểu khác là "tắc" (đồ thăm nuôi) không được mang vào phòng. Tù nhân phải ăn bên ngoài cho đã cơn thèm và số đồ ăn còn lại phải gửi. Bị "hư hao" thì ráng chịu thôi. Lại một kiểu khác, vốn là mẫu số chung với đám quản giáo coi tù ở Việt Nam là: dù trẻ già, hình dáng ra sao thì đều có 1 điểm chung, chúng luôn "nhìn bọn tù lừ đừ, khinh miệt, thù hận, mê muội...". Sự thù hận ta sẽ thấy ngay khi một ông nhà báo tù nhân dấu thuốc lào vào hậu môn bị bắt phải... nuốt chỗ thuốc lào ấy! Bạn sẽ hiểu hút thuốc lào bị cấm nhưng tù nhân vẫn lén dấu và hút trong phòng. Ðây là lạc thú và cũng là "ân sủng", phải dùng đồ vật, đồ ăn của mình trao đổi thuốc lào. Muốn vậy, bạn phải có "quả tắc dầm" (tiếp tế to). Còn một kiểu nữa là phòng tù nào cũng có "ngân hàng". Muốn có giấy báo... chùi đít phải đổi với đồ dùng, đồ ăn của mình. Chưa hết kiểu đâu, nếu bạn muốn vào "nhà mét" ban đêm thì "phải có võ mới đi ban vào nhà xí mà không dẫm tù nằm la liệt dưới đất".<br /><br />Và bạn cũng sẽ biết đám tù có "quan chức" phải canh cho nhau ngủ, "sợ bị tù đảo chánh, dùng hung khí đâm tai, mắt" là hết đời.<br /><br />Nhưng không phải ai cũng khiếp nhược bạo lực. "Lão già" tù chính trị thẳng thắn nhìn tên chánh giám thị: "Tôi chống đối là chống đối Chủ nghĩa Mác Lê, chống cái chế độ xây dựng trên chủ nghĩa ấy. Ðó chỉ là một sự bất đồng về quan điểm chính trị... Tôi không xưng "cháu" với các ông...". "Lão già" từ ở trại Phố Lu, Lào Cai, bị "khóa cánh tiên nhiều lần, cho tới ngất xỉu, mà không bao giờ nói một câu, kêu một tiếng". Mùa đông, lão bị khóa như vậy giữa sân trại. Hai ngón tay còn bị buộc vào dâu đồng, treo ngược lên hàng rào thép gai... Chính đám "đầu gấu" trong phòng vô tình ở chung đã kể lại với sự kính trọng . "Lão già", một người "lúc nào cũng nghĩ đến người khác, một người tốt như vậy mà suốt đời đi tù, chứng tỏ cái xã hội này nó xấu xa tới đâu". "Lão già" bị chuyển về Hỏa Lò sống với hình sự là có dụng ý của Bộ Công An muốn cho đám lưu manh hành hạ. "Nhưng còn sống ngày nào, là phải chiến đấu một cách khôn ngoan, tỉnh táo".<br /><br />Vào phòng giam tập thể số 14 với "Lão già", ta sẽ gặp những tù trưởng, tù tự giác, "ở ngoài đều là cán bộ cả. Can tội tham ô, hối lộ, ăn cắp của công, thông dâm, hủ hóa, bị chộp vào đây".<br /><br />Ðó là chưa kể Phạm Hùng, khi còn coi Bộ Công An, ra lệnh càn quét dữ dội, gom những người lang thang ngoài xã hội cho đi "tập bọp" (tập trung) hết. "Nó nói nó bắt không tính số lượng". Nhiều người bị bắt không bị phạm pháp, "muốn sống lương thiện cũng không nổi". Tù nhân cho biết thêm là các đợt tù từ các nhà giam ở các quận Hai Bà, Ðống Ða, Hoàn Kiếm, Ba Ðình, chuyển tới, "đều bị sưng vù mặt mũi, chúng đã được ăn đòn nhừ tử ở các quận".<br /><br />Ngược lại, bạn sẽ ngẩn ngơ khi gặp ông Việt kiều ở Pháp về nước năm 1979 với vợ vì "muốn tái thiết đất nước". Chồng đột nhiên bị bắt sau khi làm đơn xin về lại Pháp vì thấy rõ phần nào mặt trái của xã hội chủ nghĩa. Ông bị vu là "gián điệp cho nước ngoài". Ông khai là muốn về "vì lòng yêu nước", liền bị đám cán bộ chấp pháp chửi là "nói chó cũng không nghe được" vì chẳng ai ngu dại từ chỗ sống sung sướng mà trở về địa ngục. Vào tù rồi ông vẫn ngây dại "Nếu Hồ chủ tịch còn sống, nhất định không có những chuyện như thế này", đã làm cho đám tù nhân khốn khổ được những trận cười vì thương hại.<br /><br />Bạn sẽ thật sự cảm thương khi gặp người tù ngã quỵ trong phòng vì quá đói khát. Ông làm nghề sửa đồng hồ. Thường lái xe đạp rao các ngõ rao lớn: "Ðồng hồ nhanh, chậm, hỏng, vỡ. Ai cần sửa chữa", nhưng trời xui đất khiến thế nào, một hôm ông ta lại rao ngắn gọn "Hồ hỏng, Hồ vỡ, sửa chữa", liền bị công an bắt nhốt vì xúc phạm "Hồ chủ tịch". [color="blue"]Mọi điều bi thảm đầy kinh ngạc đều có thể xảy ra ở một đất nước có đám lãnh đạo điên bệnh dựng lăng kẻ đại ác gian giữa lòng thành phố Hà Nội.xin đừng dùng code màuxin đừng dùng code màuxin đừng dùng code màuxin đừng dùng code màuxin đừng dùng code màuxin đừng dùng code màuxin đừng dùng code màuxin đừng dùng code màuxin đừng dùng code màuxin đừng dùng code màu<br /><br />Phòng 14 này, bạn sẽ gặp hai thanh niên đi bộ đội bị bắt vì lẻn vào sứ quán Pháp "đánh quả" (ăm trộm); và cảm thương cho một tù nhân quê ở Bất Bạt, Sơn Tây, chỉ vì chửi tay cán bộ chủ nhiệm hợp tác tham ô nên bị bắt. Anh ốm khai thuốc bị y tá tát và bảo là "ốm vờ". Anh chết trong phòng được những bạn tù dù chỉ còn 1 quần 1 áo cũng hy sinh để cho người chết không lõa lồ. Quần đùi duy nhất của người chết đã bị xé gần hết cho phần đại tiện. Trong khi đó, hiền lành như lão già xích lô 60 tuổi vẫn bị bắt "chỉ vì đạp xe trái luật" bị công an phạt 20 đồng. Không đủ tiền nộp bị giữ xe. Uất quá kêu Lê Duẩn, Trường Chinh ra than vãn, nhưng lại bị bắt phải ký biên bản là "lăng mạ lãnh tụ". Thế là tù thôi!<br /><br />Bạn sẽ hiểu "Tạc tượng" là cách giải quyết cho tù ngủ đứng dựa lưng vào tường, vì không còn cách nào xếp cho tù ngủ cho vừa một kích thước nhỏ hẹp với 250 người. Ðất nước Việt Nam hiện nay có nhiều tù nhân, nhà tù hơn là giáo viên, trường học. "Lớp trẻ lớn lên dưới chế độ phần đông tăm tối, hư hỏng" là như thế.<br /><br />Vào phòng giam "Tạc tượng", đó là "một nấm mồ tập thể lộ thiên chưa lấp đất". "Mấy trăm bộ xương da khẳng khiu, lở loét ngập tràn, nằm ôm cứng lấy nhau, la liệt phủ kín sàn nhà. Mùi tanh tưởi nôn mửa của máu mủ, của mồ hôi, quện với mùi nhà mét bốc lên lan tỏa. Người tù nằm ngổn ngang vật vờ trong cầu tiêu rộng ba thước vuông, ngập ngụa phân, nước tiểu, khai thối tới ngạt thở". Bạn sẽ thấy người tù nào cũng nhìn ra "Cộng sản xây dựng một hệ thống trại tù kinh hồn, táng đởm, tiêu diệt mọi sinh lực, tiêu diệt mọi ý chí. Thực chất là những trường bắn im lìm, không tiếng súng". Nhưng, người chết ở trong tù luôn được chia ra chở đến các bệnh viện, vì tên chánh giám thị nói rằng "con số tử vong phải mật"!<br /><br />Ôi, "Những bài ca cách mạng"....<br />Bạn sẽ vào xà lim Hỏa Lò đêm 29 Tết với "Gã", một nhân vật mà Nguyễn Chí Thiện muốn giới thiệu.<br /><br />Gã chỉ là một giáo viên bình dị, vợ làm nghề đan len vất vả.<br /><br />Rồi gã bỗng nhiên bị bắt ngày 19/5/1981, được xem là ngày sinh của Hồ Chí Minh, vì bị vu cáo đã dùng than đen gạch đi chữ "Ta" cuối cùng trên hàng chữ "Chủ Tịch Hồ Chí Minh Vĩ Ðại Sống Mãi Trong Sự Nghiệp Của Chúng Ta" được vẽ trên cổng trường. Gã bị bắt vì là người đến trường... sớm nhất!<br /><br />Nhưng đừng tưởng đảng ta thiếu chứng cớ! Gã cũng từng được ghi sổ đen : Ngày 25/7/1979, đã giảng cho học sinh nghe luật bảo tồn năng lượng là do Lavoisier tìm ra trước, chứ không phải là nhà khoa học Nga Lomonosov như sách của Bộ giáo dục cộng sản đã in; còn gọi Lomonosov bằng "ông ta, một cách xách mé". Chưa hết, đảng bảo ngày 17/6/1980, gã đã nói với học sinh rằng người Trung Quốc đã tìm ra nguyên tắc về hỏa tiễn từ mấy ngàn năm trước, "dụng ý đề cao Trung Quốc" (thời Cộng sản Hà Nội quỳ gối trước Liên Xô và xem Trung Cộng là kẻ thù). Chính vì quan niệm lịch sử phải được thay đổi theo quan điểm chính trị từng thời điểm một cách ngu xuẩn và phản khoa học của lãnh đạo đảng CSVN mà bao nhiêu thảm họa cho dân tộc đã xảy ra.<br /><br />Anh tù giáo viên bị cắt tiếp tế của gia đình từ đó. Nguyễn Chí Thiện sẽ chỉ cho chúng ta thấy hàng đoàn người thân nhân của tù ngồi ủ rũ, quần áo nghèo nàn lem luốc, mang theo những túi quà do mồ hôi nước mắt cực khổ kiếm được để thăm nuôi chồng con, em, cháu đang tù đày. <br /><br />Tết ở Hỏa Lò lạnh căm căm. Tù càng lạnh vì gầy yếu. Cảnh thăm nuôi càng làm cho những người dù có "tắc" hay không đói muốn điên cuồng. Ta sẽ nghe những tiếng đe dọa, phẫn nộ, điên cuồng của đám tù đầu gấu nói với những tù có "tắc":<br /><br />- Ném bánh chưng, ném kẹo lạc vào đây!<br /><br />- Ð... mẹ mày, không quẳng gói giò mỡ vào, ông đánh gẫy xương sườn!<br /><br />- Biết điều thì để túi thịt lại. Không, bố sẽ nện không còn cái răng mà nhai!<br /><br />- Ném vào! Không, ông sẽ dần cho mày ựa mì tôm ra!....<br /><br />Chúng ta cũng sẽ chứng kiến sự "chiếu cố" bệnh tật của đám y sĩ, y tá nhà nước với tù chuẩn bị đón năm mới: Ai ghẻ mủ đầy người thì: "Thuốc bôi ghẻ ngoài tết mới có. Những thằng ghẻ lở vào phòng". Ai sốt cả đêm thì y sĩ đo nhiệt kế rồi phán: "37 độ 2, sốt gì. Vào!". Còn đám tù đi "lỏng" thì y sĩ đưa mỗi người 1 tờ giấy bằng bàn tay ra ngay sân để... thử phân, đi xong, "không chùi, không rửa, chúng kéo quần lên". Tên y sĩ chỉ cho người kiết lỵ nặng "2 viên ga-ni-đăng, còn bệnh nhẹ hơn thì bị mắng và dọa cho nằm bệnh xá, là nơi được tù gọi là "Phòng chờ chết".<br /><br />Chúng ta cũng sẽ thấy cảnh tù nhân ghẻ lở đầy mình được tắm đón... Xuân ! Và sẽ chỉ ghẻ lở thêm vì tiêu chuẩn tắm là 3 đợt xối nước, mỗi đợt là 10 bát nước múc từ bể dơ bẩn theo tiếng đếm từ 1 đếm 10 của tên trực tù.<br /><br />Chúng ta sẽ được nghe kể về cát-sô Hỏa Lò tồi tệ hơn thời tác giả Biệt kích Ðặng Chí Bình kể trong hồi ký Thép Ðen khi ông vượt tuyến công tác ngoài Bắc vào thập niên 60. Vào cát-sô không được mặc quần đùi. Không mang gì kể cả khăn mặt. Nằm trên xi măng mà "thực tế là trên bể chứa phân". Phía dưới chân là rãnh nước. Ngày đêm mùi hôi thối bao trùm. Mỗi ngày chỉ ăn một bữa gọi là ăn "dồn toa". Ăn bốc, không thìa, không bát. Cơm đựng trong tú ni-lông. Không có bô. "Ði ngoài ngay lên chỗ mình nằm. Rồi lấy tay bốc phân, ném xuống rãnh". Lỗ cùm thường nhỏ với chân, nếu tên quản giáo ác độc sẽ đè mạnh khóa cùm. Cổ chân sẽ bị ghiền nát. Nhiều người chỉ qua đến ngày thứ ba là chết.<br /><br />Chúng ta sẽ chia sẻ sự hạnh ngộ đau đớn giữa người tù giáo viên và đứa học trò cũ nay là tên quản giáo "ngạo mạn, rông rỡ, đôi khi còn độc ác". Chữ "lễ" không còn nữa, mà chỉ còn xưng hô "Thưa cán bộ - báo cáo cán bộ...", và học trò gọi thầy cũ bằng... "anh". Và trong một buổi hút thuốc lào lậu trong phòng, tên học trò quản giáo đã rình bắt quả tang và dùng dùi cui đánh túi bụi vào tù và ném dùi cui vào người thầy cũ, với ba chữ "Ð... mẹ anh". Nhưng người giáo viên "sẽ không quỳ. Dù có bị đánh chết... Không có sức mạnh nào bắt được tôi qùy.... Tôi chỉ quỳ trước bàn thờ tổ tiên tôi thôi".<br /><br />Bạn cũng sẽ gặp tù nhân là đại úy bộ đội buôn thuốc phiện lậu, nhưng cũng chỉ là tép riêu trong đường dây ma túy mà y lo "không biết mấy thằng tướng, thằng tá, cùng làm ăn với tớ, có cứu tớ không?". Còn có tên tù trẻ là con nhà thơ Nguyễn Xuân Sanh khom mình làm việc cho công an. Tay tù trẻ này bị bắt vì "đánh quả" một sứ quán, nhưng chỉ tù qua loa. Như con trai Huỳnh Tấn Phát xách súng của bố đi ăn cướp nhưng chỉ bị tù cảnh cáo ít ngày rồi được thả.<br /><br />Có nhẫn tâm không, đêm 30 Tết, những tù nhân tưởng sẽ được hưởng không khí thiêng liêng với chút đồ ăn thăm nuôi cùng chia sẻ, nhưng bọn quản giáo tìm cách tập kích lấy hết đồ ăn đón tân niên của tù vì "tội" mang đồ ăn vào phòng, để "chúng nó đêm nay sẽ chè chén no say. Còn có quà mang về cho vợ con nữa". Nhưng họ vẫn phải quên đi và thay bằng những tiếng hát gọi nhau hết xà lim này sang xà lim khác, dùng chính những bài ca "cách mạng" của cộng sản có những chữ "tù đày" để lên án chế độ một cách khéo léo. Âm thanh như muốn vỡ toang Hỏa Lò. Và đêm trừ tịch ấy, bọn công an đã phải bắn chỉ thiên và lôi tù nhân ra ngoài đánh đập ngay bên cạnh chiếc bàn trực đầy đồ ăn mà chúng vừa vào phòng cướp của tù nhân. <br /><br />Ðến nỗi gã đại úy buôn thuốc phiện phải thốt lên: "nếu trời đất thay đổi, lũ chúng phải vào tù, tôi chỉ có một nguyện vọng, là được làm "một viên cai ngục nhỏ bé". Và điều đáng nói là cả phòng ai cũng muốn làm cái nghề "nhỏ bé" này...<br /><br />(Xem tiếp số tới)<br /><br />Thái Bình <br /><br />(Điện báo Ánh Dương)<br /><br />****************************<br />(Tiếp theo kỳ trước)<br /><br />Gặp nhà thơ "Phùng Cung"....<br />Ðây có lẽ là sự cố tình của tác giả khi đưa chương đặc biệt này vào tập sách Hỏa Lò, vì tác giả - thay vì đưa ta vào các sinh hoạt khác của Hỏa Lò - lại dẫn ta ngược lên trại tù Phong Quang, tỉnh Yên Bái, để gặp một nhà thơ nổi tiếng thời Nhân Văn Giải Phẩm: Ðó là Phùng Cung.<br /><br />Nguyễn Chí Thiện nhận định rằng trong tất cả sáng tác thơ, văn phản kháng trong các giải phẩm Mùa Xuân, Mùa Thu, Mùa Ðông của tờ Nhân Văn, thì bài "Con ngựa già của Chúa Trịnh" của Phùng Cung là đặc sắc nhất, "về nghệ thuật cũng như về nội dung". Nội dung bài viết nói đến những văn nghệ sĩ có tài, "nhưng vì đã ngoạm vào miếng đỉnh chung Ðảng ban phát, nên chẳng những tài tận, mà nhân cách cũng diệt". Với bản chất độc tài nên đa nghi và mặc cảm, đảng CSVN cho bài viết này chửi sỏ Ðảng. "Thực ra, đó chỉ là sự tha hóa tầm thường của những kẻ thiếu Tâm, thiếu Ðức, khi được vinh hoa, phú quý, lo lắng bảo vệ cho địa vị của mình". Chính vì thế mà nhà thơ Phùng Cung bị giam cầm 12 năm dài.<br /><br />Chính vì quý phục cái Tâm nên Nguyễn Chí Thiện đã cố tìm tù nhân Phùng Cung. Hai nhà thơ, cùng chứng bệnh lao phổi, đã tương đắc nhau từ đó với những buổi lén quản giáo pha trà đọc thơ cho nhau nghe. Cũng nhờ sự tâm đắc này mà nhà thơ Phùng Cung có thêm phấn chấn sáng tác.<br /><br />Trại tù nào cũng vậy, kể cả Phong Quang, những "phạm binh, phạm cán" (tù bộ đội, tù cán bộ) đông không đếm xuể. Bệnh làm "ăng ten" bẩm báo, chụp mũ, tố giác để mong được thêm chút cơm, về sớm nơi nào cũng có. Như Phùng Cung viết :<br /><br />Ngộ độc rồi, lại chuốc độc lẫn nhau<br /><br />Nhưng tác giả xác định rằng "chỉ riêng người Công giáo, Phật giáo, những linh mục, tu sĩ, nhà sư là rất hãn hữu. Ðiều này chứng tỏ tôn giáo là vô cùng hữu dụng trong việc duy trì nhân phẩm, đạo đức loài người".<br /><br />Phùng Cung đã thoát khỏi mê chước tầm thường đó, vì ông đã chọn nghiệp đấu tranh cho tự do bằng thơ. Chính vì vậy, xưa ông theo Ðảng để giải phóng dân tộc, nhưng nay ông khẳng định rằng "theo Ðảng thì hối hận. Kháng Chiến chống Pháp thì không".<br /><br />Nhưng đây đó vẫn còn những văn nghệ sĩ vẫn đẩy đưa ngòi bút theo lệnh Ðảng, làm việc cho công an, như Nguyễn Công Hoan, Ðỗ Phồn... Hay một số trí thức, nhà văn từng lên tiếng phản kháng chống Ðảng một thời gian sau năm 86, nhưng sau đó "đã trở lại với nghề bồi bút cũ" như Trần Mạnh Hảo, Nguyễn Thị Ngọc Tú, Diệp Minh Tuyền, Trần Quốc Vượng.... Như thơ Phùng Cung viết:<br /><br />Tội nghiệp nhà thơ<br />Hợm mình<br />Lầm lạc<br />Bởi không biết sống<br />Nên không biết chết<br />Nửa thế kỷ bị lưu đày<br />Trong cõi tung hô!<br /><br />Cũng ở Phong Quang, tác giả cũng chỉ cho chúng ta thấy tuổi trẻ VN phạm pháp nhiều như thế nào. Có những đứa trẻ 9, 10 tuổi mà cách sống "trưởng thành" đáng báo động. Và có biết bao em gái 13, 14 tuổi bị tù mà thân xác như 17, 18 vì sự lạm dụng tình dục của đám cán bộ giáo dục.<br /><br />Sau năm 1977, Nguyễn Chí Thiện và Phùng Cung được phóng thích, tiếp tục làm thơ và sống rất nghèo. Tháng 7/1979, Nguyễn Chí Thiện lại bị bắt sau khi giao tập thơ gần 400 bài cho Tòa Ðại Sứ Anh. Ông tiếp tục 12 năm tù cho đến tháng 10/1991. Ông và Phùng Cung vẫn liên lạc với những người tù vì đấu tranh, bất chấp sự theo dõi của công an. Năm 1992, bất chấp an nguy, hai nhà thơ Phùng Cung và Phùng Quán viết thiệp mời các văn nghệ sĩ, mời cả Ðỗ Mười, Lê Ðức Anh, đến dự lễ "mừng sống dai" 80 tuổi của ông Nguyễn Hữu Ðang, cũng là một nhân vật nổi tiếng thời Nhân Văn Giải Phẩm. Ðảng giận tím mặt và lo "đám phản cách mạng" đang lấn tới. Cũng như ngày nhà thơ Phùng Quán mất, ông Phùng Cung đứng ra tổ chức tang lễ đã làm cho Ðảng sợ, vì số người đến quá đông với những dòng chữ lưu niệm về "Một kẻ sĩ bất khuất". Ðảng lo là phải!<br /><br />Cũng với quan niệm một lần nói cho rõ, qua cái chết của "Nhân Văn" Phùng Quán, tác giả đã nói đến hai nhân vật Nhân Văn nổi tiếng khác đã rời bỏ chính tâm: Nhà thơ Hoàng Cầm, tác giả bài thơ "Ðêm liên hoan" nổi tiếng, đã viết "Nhớ về làng Sen" để ca ngợi Hồ Chí Minh nhân ngày sinh 100 năm của y. Và nhà thơ Lê Ðạt vẫn còn đủ thì giờ để sáng tác tập thơ "Trường ca Bác" cũng làm vào dịp này.<br /><br />Trước khi đi định cư tại Hoa Kỳ vào tháng 11/1995, tác giả đã đề nghị nhà thơ Phùng Cung viết lại biến cố Nhân Văn Giải Phẩm để đời sau biết sự thật. Tiếc thay, một thời gian ngắn sau đó, nhà thơ Phùng Cung qua đời khi đất nước vẫn chưa có dân chủ tự do....<br /><br />Vẫn... "Sương Buồn Ôm Kín Non Sông"....<br />Ðây là chương dài nhất trong tập Hỏa Lò, chiếm 118 trang trong 316 trang. <br /><br />Nguyễn Chí Thiện sẽ dẫn ta đến một khu xà lim ở Hỏa Lò, để gặp một tù nhân đặc biệt, được gọi là "Lão": 31 tuổi bị tập trung cải tạo vì là đại úy lính quốc gia. 4 năm sau thì vợ bỏ. 47 tuổi ra tù. Con trai duy nhất mất xác trên ở Trường Sơn. Vợ đi lấy một tay cán bộ quản lý thị trường. Ở đây ta gặp một triết lý cay đắng khác: Kẻ thù cướp vợ Lão chính là ân nhân nuôi sống vợ con Lão. Vì "bao bạn bè Lão đi tù, vợ bỏ, con thất học, lêu lổng, hóa lưu manh. Bố một trại, con một trại. Có khi bố con cùng một trại. Có kẻ vợ phải đi bán thân, kiếm tiền nuôi con, nuôi thân, tiếp tế nuôi chồng".<br /><br />Lão sống được gần hai năm tự do thì lại bị lệnh tập trung, vào tháng 5/78, sau khi có xung đột dữ dội ở biên giới Trung - Việt. Lão ở Hỏa Lò ít hôm rồi bị chuyển lên trại Z8 - thung lũng tử thần. Ngày đầu tiên, lão càng thấy sự "ưu việt" của chế độ khi "trong nắng chiều vàng ủng như nghệ, hàng trăm tù nhân trần truồng, xám xịt, lủng củng xương da, đứa nằm đứa ngồi đương bốc cơm ăn". Ở đó, có chiếc xe bò lọc cọc đưa "năm xác chết trần truồng, đặt lên xe, kéo đi", vì quá đói, vì bệnh trầm kha. Và "những tên tù ăn xong đứng lên, mủ máu từ hậu môn rỏ xuống...". <br /><br />Lão cũng phải chứng kiến thêm cảnh cô giáo xã hội chủ nghĩa cầm củi rượt chồng - là hiệu trưởng, đảng viên - và cất giọng "thằng khốn nạn, mày bỏ vợ con, đi theo con đĩ đó...", rồi lấy tay vỗ bành bạch: "Thằng chó dái, cái này là cái gì! Nó không phải là "cái mả bố mày" sao, mà mày phải vục đầu vào cái của con nhà thổ?".<br /><br />Ðó không còn là một đất nước có giáo dục mà là "giáo đâm, giáo chém". Ðó không phải là "thời đại ra cửa gặp anh hùng" của Hồ Chí Minh mà các văn nô tuyên truyền, mà là "thời đại ra cửa gặp kẻ cướp". Thời mà tù nhân vui cười hớn hở "khoe khoang chiến công trộm cướp" chứ không xấu hổ như xưa khi bị hỏi đến tội mình. Ðiều kinh sợ là "xã hội nhìn chúng bằng con mắt bình thường" vì cả nước bị đảng đưa đẩy vào tuyệt lộ. Liêm sỉ không mua nổi cơm gạo nuôi con. Danh dự chỉ còn là món hàng xa sỉ.<br /><br />Tù đày cũng là thời gian hiếm quý để người tù có thòi gian suy nghiệm nhiều điều. Cho chính mình và xã hội. Lão tù nhân cũng vậy. Lão ở lại miền Bắc vì thân phụ tin vào chính quyền cộng sản hứa hẹn sẽ lưu dụng tất cả lính, công chức... quốc gia ở miền Bắc. Sau này đi tù, lão mới biết hàng vạn người vì tin sự "lưu dụng", khoan hồng này đã vào tù. "Một cuộc bỏ tù vĩ đại chưa từng có trong lịch sử". Lão tù nhân trí thức mới biết "không phải chỉ riêng gia đình lão ngu ngơ, mà hầu như cả dân tộc ngu ngơ". Tìm được lý giải không dễ, cho đến khi lão gặp một "lão già phản cách mạng chính hiệu" ở trại Phố Lu năm 1997. Tại sao đảng CSVN thích bỏ tù dân: Trước hết, về mặt kinh tế, một tù nhân lao động tạo ra sản phẩm nhiều gấp 20 lần phí tổn mà nhà nước bỏ ra nuôi một tù. Kế đến, thấy nguy hại thì ra lệnh tập trung thành phần "có sổ đen" cho đỡ phải tốn nhiều công an rình mò, báo cáo. Ngoài xã hội sẽ chỉ còn đa số giới trẻ, đảng tha hồ nhồi nhét tuyên truyền láo khoét. Cái gọi là "giáo dục cải tạo" chỉ là những từ ngữ "vô nghĩa, ngớ ngẩn". Chính đảng CSVN không "ngu tới mức tin vào những chữ đó". Người dân ở ngoài đã thù ghét chế độ biết bao, sau bao năm bị giam cầm tù đày, thì làm gì có chuyện "tiến bộ, yêu chế độ" bao giờ. Ðiều mà nhiều tù nhân đóng kịch "đã cải tạo tốt" thì chỉ làm "chúng khinh bỉ, cười vào mũi" mà thôi.<br /><br />Nguyễn Chí Thiện đưa chúng ta đi với "Lão" tù nhân vào xà lim 1, sau khi Lão bị đột ngột đưa về lại Hỏa Lò. Ở đó, như mọi nơi khác, có nhiều điều cấm - nhất là "cấm cầu nguyện". Ở đó, có quản giáo "Ngưu ma vương" cực kỳ gian ác.<br /><br />Mỗi chốn tù đày đều là một xã hội thu nhỏ. Ở Xà lim 1, lão ở chung phòng với "Phó Nhòm", vì phải nhìn ra cửa sổ con xem chừng quản giáo; được quản giáo nhờ làm ăng-ten để khai thác Lão tù nhân nhưng không làm. Phó Nhòm nguyên là bộ đội từng dự trận đánh Ðiện Biên; sau chuyển ra ngoại thương, cùng với nhiều quan chức lớn ăn cắp của công, vì "không ăn cắp, những thằng khác cũng ăn cắp... Từ to tới nhỏ, thằng cán bộ nào có điều kiện ăn cắp mà không ăn cắp? Nhưng chết, chỉ chết lại tép riu như tôi thôi", như Phó Nhòm nói. Phó Nhòm vào Nam sau 75, thấy rõ sự tuyên truyền láo khoét của đảng. Thảm họa sau đó, như cụ Vũ Ðình Huỳnh, nguyên bí thư của Hồ Chí Minh, ngậm ngùi nói: "Sài Gòn là một thành phố bị chiếm đóng. Không phải là thành phố được giải phóng. Chỉ vài năm thôi, nó sẽ giống Hà Nội". Là một cán bộ từng được xuất ngoại, Phó Nhòm luôn tiếc rẻ "Giá miền Nam mà giải phóng miền Bắc thì tốt bao nhiêu". Vì từng ở trong đảng nhiều năm, gã khẳng định "guồng máy độc tài này chỉ mang lại tai ương cho dân tộc". Từng được đi ngoại quốc, gã khẳng định "kẻ nào đã sống trong chế độ, đã được nhìn thấy thế giới, với tất cả cái tốt, cái xấu của nó, mà còn chấp nhận được chế độ, thần kinh kẻ đó phải có vấn đề".<br /><br />Xà lim 1, nơi phòng 7 là "Gã đầu gấu", 20 năm tù, tù trộm cắp từ 14 tuổi. Vừa ra tù một năm thì đâm một tên cán bộ thuế vụ bắt phải đưa đủ tiền đút lót. <br /><br />Phòng 9 là một cô lai Tây đen, quê Bắc Ninh, không biết rõ tội gì. Cô có giọng hát rất hay, nhất là hát điệu quan họ. Ðến nỗi "Chỉ nghe tiếng hát mà lòng yêu thương". Chung phòng có "Cô buôn đô la" bị bắt chỉ vì có sáu trăm mỹ kim trong người.<br /><br />Ở phòng 4 là "Giặc lái", hỗn danh của dân lái xe tải. Thời chiến tranh, giới này chuyên lái xe lương thực vào Quảng Bình. Dùng tem gạo bộ đội để trao đổi thân xác các cô gái quê nghèo. Họ sống rất sung sướng vì thường báo cáo xe lương thực bị máy bay Mỹ thiêu hủy. Lẽ ra "đáng bị nhiều án tử hình" như "Giặc lái" nói nhưng lại chỉ "lại toàn được tuyên dương xuất sắc"! Và nay thời bình, "Giặc lái", 42 tuổi, lại bị án tử hình vì ăn cắp 4 xe thóc, tổng cộng 28 tấn. <br /><br />Gần đó là phòng giam một Thượng úy bộ đội, thường khoe là toán đầu tiên vào "giải phóng Sài Gòn", nhưng tính chuyên "xì xọt, bẩm báo", cả khu xà lim đều ghét, đã bị "Gã đầu gấu" cho một vết lưỡi lam ngay mặt để cảnh cáo. Gã Thượng úy từng đóng quân bên Lào, phụ trách chở lương thực sang Thái giúp du kích cộng sản Thái; lợi dụng chuyến đi chở người vượt biên ăn tiền được vài lần thì bị lộ. Phải khai man đủ 18 tuổi để đi lính, người thanh niên ở Thái Bình này - và biết bao thanh niên khác - đã phải tìm cách đi bộ đội chỉ vì quá đói khổ, cần có miếng ăn. Lớn lên dưới chế độ thiếu tình người, gã đã từng ăn gan khô của người khi sang chiếm đóng Cam Bốt, "nhiều thằng bạn con, chúng ăn gan tươi. Moi từ bụng ra, nhắm rượu luôn. kể cũng tàn bạo", như gã tâm tình với Lão tù nhân....<br /><br />Kế đó, ta sẽ biết phòng giam một cô "người yêu gã đầu gấu", hiền lành, tốt bụng; và một cô gái trong Ðoàn kịch nói Hà Nội, "nói năng tục tĩu, lưu manh còn phải chạy dài". Ở phòng 10, ta cũng sẽ gặp hai nữ cán bộ nhà nước can tội tham ô, thụt két; một người có chồng làm Thượng tá công an.<br /><br />Người nữ tù đáng nói ở khu xà lim 1 là dân Sài Gòn, vợ một Hoa kiều trọc phú. "Bà Sài Gòn" và con trai bị bắt, đã lo lót 150 cây vàng và sắp được thả. Chính vì có khả năng lo lót cho đám quản giáo nên khu xà lim 1 dễ thở hơn nơi khác và với những số quà thăm nuôi nhiều vô kể, bà đã san xẻ cho tất cả tù nhân trong khu xà lim.<br /><br />Qua lời kể của Nguyễn Chí Thiện, ta sẽ hiểu thêm về bản chất "uy vũ bất năng khuất" của Lão tù nhân - như đại diện cho hàng sĩ phu chân chất - khiêm tốn nhưng võ nghệ thâm thúy; từng thẳng thắn dạy cho tên Ngưu Ma Vương một bài học trước mặt tù xà lim 1, mà tên quản giáo không dám trả thù. Lão tù nhân cũng thẳng thắn từ chối lời khuyến dụ trả tự do sớm để làm điềm chỉ cho công an.<br /><br />Có một sự kiện lạ ở Hỏa Lò mà Nguyễn Chí Thiện ghi lại khiến ta kinh ngạc. Một vị sư già gầy gò từ An Giang ra đi hành đạo, đến Hà Nội thì bị bắt đưa vào Hỏa Lò, ở ngay phòng giam của tử tội "Giặc lái" vừa bị đem đi hành quyết. Vị sư không có bất cứ đồ đạc gì, ngoài chiếc khăn mặt cũ. Ta hãy nghe:<br /><br />- Can tội gì ? Phản động đội lốt nhà sư, phải không ?<br /><br />- A Di Ðà phật, tôi không đội lốt ai. Tôi tu hành từ nhỏ. Lấy trời làm màn, lấy đất làm chiếu.<br /><br />Ở tù hay ở đâu cũng vậy thôi. Ông thất lễ lắm, tôi không nói chuyện với ông.<br /><br />Vị sư già an nhiên tự tại, ngày ăn chỉ một lần. Vậy mà "Gã đầu gấu" lại có cơ duyên khi ra vệ sinh bên ngoài đã bất chợt nhìn vào ô cửa nhỏ, há hốc miệng nhìn thấy vị sư già ngồi thiền định "lơ lửng trên không, cách mặt sàn chừng nửa thước". Vị sư cho biết xà lim này vừa có người bị hành quyết, chưa được siêu thoát. Ngài thản nhiên nói rằng "sáng mai, bần tăng sẽ rời khỏi đây". Cả xà lim đã kinh ngạc khi buổi sớm mai, quản giáo Ngưu Ma Vương vào phòng giam mở cửa buồng vị thiền sư: "Ðảng khoan hồng, tạm tha cho "anh". Liệu cái thần hồn"! Nhưng điều mà nhà sư nói lời cuối cùng với Ngưu Ma Vương: "Gia đình sắp có tai họa. Phải tu nhân tích đức đi", đã trở thành sự thật ít hôm sau đó khi nét mặt Ngưu ma Vương thẫn thờ, buồn thảm. Theo ông quản giáo "Găng-đi" cho biết Ngưu Ma Vương chỉ có một con trai duy nhất vừa vào Hỏa Lò vì tội cướp của, giết người.<br /><br />Nhưng người tù còn sống sót là nhờ tình người vẫn còn đó. Cái "tình" là những chuyến quà nho nhỏ được cột vào chiếc bàn chải đánh răng chuyền cho nhau qua sợi dây giữa các phòng tù. Cái tình là món quà sinh nhật đầu tiên ở tuổi 53 mà lão nhận được từ các bạn tù. Ngoài vật chất nhỏ nhoi nhưng đầy tình nghĩa, các bạn tù đã tặng Lão những bài hát đầy tình người. Ở đó có những mối tình lạ lùng đầy bi thương chớm nở, đầy ắp trong tim "Phó Nhòm" và "Cô buôn đô la". Tình người vẫn còn đó với ông quản giáo được tù nhân gọi là "Găng-đi" (Ghandi), vì ngoài bản tính miền Nam bình dị, ông đã đối xử rất thông cảm với tù nhân. "Một trái tim tốt có thể xoa dịu được nhiều khổ đau, oan trái". Dù không có "mều chun" (thịt heo), "mều ngạnh" (thịt trâu) như một loại "ân sủng" trong những ngày lễ cộng sản, những tù nhân vẫn xóa nỗi thèm bằng sự chia xẻ lời ca tiếng hát cho nhau. Và ở bên ngoài cuộc đời, cũng khó ai có thể hiểu được Lão tù nhân đã cho hai nữ tù nhân hai chiếc áo lót duy nhất của mình để phụ nữ sử dụng khi "đến ngày tháng", vì hai cô đã bị công an cắt thăm nuôi để ép cung... <br /><br />Trong nỗi khốn cùng đó, tình người đã mang mang một tình cảm nhẹ như tơ vương nhưng "nặng" một đời. Vào ngày cuối cùng trước khi được thả, "Bà Sài Gòn" đã gửi cho Lão tù nhân một chiếc khăn tay tự thêu trong tù có ba chữ "Forget-me-not" - Ðừng quên em; và một chiếc nhẫn kỷ niệm một khoảng trời không bao giờ tìm lại được. Và cả xà lim đã có một đêm đầy nước mắt với những bài hát tiễn biệt ngàn trùng, kể cả "Biệt Ly" mà Lão tù nhân lần đầu tiên hát, với một bài thơ nhỏ tặng người ra đi. <br /><br />Tìm nhau "Trăng Nước Sông Hồng"....<br />Ở chương cuối, Nguyễn Chí Thiện sẽ đưa chúng ta khu xà lim 1 ở Hỏa Lò để gặp hai người tử tù yêu nhau. Một mối tình kỳ lạ, nên thơ và bi thảm.<br /><br />Gã là một thanh niên từng đi bộ đội từ năm 17 tuổi. Giải ngũ vì bị thương ở biên giới Trung - Việt. Cùng bạn bè "đột vòm" (ăn trộm) kho thuốc tây của Trung ương đảng và bị kết án tử hình vì bị xem là thách thức đến quyền uy của đảng. Là tử tù, gã bất chấp nội quy, mắng chửi cả quản giáo, tố cả chế độ bất nhân đối với tù còn tàn tệ hơn thời thực dân Pháp. Gã bảo "bây giờ, cứ bị tử hình là cùm miết, cấm gặp luôn cả gia đình. Ð... mẹ cái chế độ!". Nhưng gã vẫn cảm thấy cuộc đời vẫn còn một người để "tin yêu"....<br /><br />Nữ tử tội chỉ là cô gái 19 tuổi, hiền lành nhưng đã đốt cả nhà một tên công an hộ khẩu. Cô gái mua bán tem phiếu ở mậu dịch để kiếm sống, nhưng tên công an chuyên ăn gỡ của người nghèo đã tìm cớ khám nhà cô, "còn lợi dụng khám cả người". Cô chửi hắn và bị đem ra khu phố đấu tố. Mẹ cô là giáo viên cũng bị lôi ra kiểm điểm. Gia đình cô sau đó bị đày đi kinh tế mới và cô đã phẫn nộ dùng một can xăng để trả thù. Dù sắp chết nhưng cô sống an nhiên vì tin "sống cho tốt, gieo nhân tốt, thì kiếp sau hái quả tốt".<br /><br />Ðôi tình nhân tử tội sống đối diện phòng nhau, chia sẻ trái tim qua những chiếc cửa nhỏ tù đày mỗi đêm. Họ trao cho nhau những ước mơ ở kiếp sau, được lấy nhau và chọn những đêm trăng trên sông Hồng là nơi hò hẹn.<br /><br />Họ vẫn cố thét lên những chữ chờ đợi nhau khi đám công an dùng vũ lực lôi gã tử tội dọc hành lang xà lim 1 để ra pháp trường. Ðó là một nơi, thực ra - dù sống hay chết, dù ở trong hay ngoài song sắt, thì cũng "Ðều là đất thù" mà thôi!<br /><br />***<br /><br />Vào Hỏa Lò với Nguyễn Chí Thiện lần này, qua những cảnh tù, ta thấy bật lên những niềm hy vọng bởi lòng tự trọng, bất khuất vẫn còn vươn lên trên những bầm dập của đời tù. Những cán bộ đảng với nếp quen tham ô nhũng lạm - dù còn quyền cao chức trọng bên ngoài hay bị vào rọ Hỏa Lò - đều có cách ứng xử hèn hạ, thượng đội hạ đạp, xu nịnh cấp trên hay quản giáo để mong giữ yên ghế quyền lợi hay được làm tù "tự giác" vừa nhàn vừa được ăn thêm. Ngược lại, những người tù có đời sống tự trọng luôn chối bỏ sự xu nịnh, gian tham khuyến dụ, dám nhìn thẳng đám lãnh đạo u tối mà phê bình, dám can ngăn đám quản tù có hành xử thú vật bất nhân với các tù nhân khác. Họ chấp nhận những oan khiên, cực hình - không vì muốn làm thánh tử đạo, mà chỉ muốn là những hạt cát đính trên bức tường dân chủ tương lai. <br /><br />Qua Hỏa Lò, Nguyễn Chí Thiện không viết về cuộc đời tù đày của mình - mặc dù danh xưng "tôi" chỉ xuất hiện trong chuyện tưởng nhớ nhà văn thơ Phùng Cung - mà về những người tù mà ông quen ở Hỏa Lò; nhất là những tâm hồn đẹp, rất người, rất Việt Nam mà có lẽ ông cho là một món "nợ tình" phải nói lên, phải ghi lại cho những thế hệ mai sau được cơ hội chiêm nghiệm, nếu may mắn sẽ là những bài học quý giá cho cách ứng xử sao cho có hậu với chính mình, cho tha nhân và cho đất nước.<br /><br />Có người nói một nhà thơ nổi tiếng ít thành công bằng nghiệp văn xuôi. Nhưng với Nguyễn Chí Thiện, ông viết văn xuôi có lẽ cũng... dễ như những câu thơ được ươm nhiều năm từ Hoa Ðịa Ngục; tập thơ đã đưa ông vào những chấn song thêm mười mấy năm khi cố chuyển vào tòa lãnh sự Anh quốc ở Hà Nội. Ðiều này cũng dễ hiểu vì gần cả một thời thanh xuân ông đã phải sống với nỗi chết thường trực vây quanh. <br /><br />"Trăng Nước Sông Hồng" ở chương cuối, cho thấy đất nước Việt Nam vẫn còn chế độ bạo ngược hoành hành. Nhưng tác giả vẫn cho thấy niềm tin của nhiều người, kể cả tù nhân cán bộ, đảng viên, về một ngày mai tươi sáng của dân tộc sẽ phải đến. Như "Gã tù trưởng": "Cộng sản thì chỉ thuần túy dùng lừa bịp, áp chế, bạo lực... Chúng tồn tại không lâu nữa. Ðó là điều chắc chắn". Hoặc như chính tác giả "hằng mơ ước một ngày không xa, quê hương Việt Nam yêu dấu được tự do...". Ước mơ đó sẽ thành hiện thực "Khi dân hết sợ là Ðảng hết thở"...<br /><br />Thái BìnhVIET NAM QUE HUONG TOIhttp://www.blogger.com/profile/17768876020603625276noreply@blogger.com1tag:blogger.com,1999:blog-7636341192878165251.post-12459469015202708942009-08-29T21:20:00.000-07:002009-08-29T21:23:11.692-07:00TAU CONG GIET VIET CONG MA VIET CONG VAN NHO ON DOI DOIGiỗ cha con mèo<br />Đỗ Thái Nhiên<br /><br />Mèo to lớn hơn chuột rất nhiều lần. Mèo thường xuyên hiếp đáp chuột, ăn tươi, nuốt sống chuột. Mèo cư xử với chuột chẳng khác nào đại Hán cư xử với tiểu quốc. Dưới mắt chuột, mèo là kẻ thù truyền kiếp, kẻ thù không đội trời chung. Quan hệ cực kỳ tệ hại giữa mèo và chuột đã được giới bình dân đai chúng Việt Nam diễn tả bằng bốn câu ca dao nghe như đùa nhưng vô cùng thâm thúy. Ca dao rằng:<br /><br />“Con mèo trèo lên cây cau<br />Hỏi thăm chú chuột đi đâu vắng nhà,<br />Chú chuột đi chợ đường xa<br />Mua mắm mua muối giỗ cha con mèo!”<br /><br />Bốn câu ca dao vừa trích dẫn cho thấy mèo vẫn bị xem như một động vật. Đứng trước danh từ “mèo” là loại từ “con”. Riêng loài chuột lại được nâng lên làm người và được thân mến gọi bằng “chú”, chú chuột. Người đời thường cúng giỗ người quá cố bằng xôi, chuối; bằng hoa tươi, trái ngọt. Riêng chú chuột, chú đã “chơi khăm” con mèo thông qua sự việc “giỗ cha con mèo” bằng mắm với muối. Hẳn nhiên mắm và muối không thể là hai phẩm vật đáng được đặt lên bàn cúng. Nói đúng hơn, chuột chẳng những không bao giờ “giỗ cha con mèo” mà còn dùng mắm và muối để nguyền rủa dòng họ nhà mèo. Cúng giỗ là một hình thức tri ân. Chuột không thể tri ân mèo vì đã “có công” tìm và tiêu diệt chuột từ đời này qua đời khác. Hận thù chỉ nên giải chứ không nên buộc. Thế nhưng ngày nào mèo còn ăn tươi nuốt sống chuột, ngày đó chuột còn có nghĩa vụ nuôi lòng hận thù mèo. Lòng hận thù trong trường hợp này là một loại vũ khí tinh thần giúp loài chuột bảo vệ nòi-giống-chuột.<br /><br /> <br />Nói về tương quan lực lượng, quan hệ giữa chuột với mèo chẳng khác nào quan hệ giữa Việt Nam với Trung Quốc. Trong khi chuột dứt khoát hận thù mèo thì CSVN đã ứng xử như thế nào đối với Trung Quốc? Câu trả lời nằm trong các bản tin sau đây:<br /><br />I. Tin tức cấp xã<br /><br />Ngày 17 tháng 02 năm 2009, kỷ niệm 30 năm Trung Quốc đánh Việt Nam dưới danh nghĩa “Dạy cho Việt Nam một bài học”. Vào dịp này, ngày 10/02/09, ban văn hóa tư tưởng, trực thuộc Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng CSVN đã nghiêm khắc ra lệnh cấm hệ thống truyền thông Việt Nam tuyệt đối không được nhắc đến biến cố đẩm máu Hoa Việt 17/02/09. Thi hành mệnh lệnh vừa kể, mọi ý muốn cúng giỗ hàng vạn đồng bào thân yêu đã vị quốc vong thân từ chiến trận 1979 đều bị dẹp bỏ. Rõ ràng là CSVN đã buộc mọi người Việt Nam phải “Khép lại quá khứ” trong tận cùng của tức tưởi. Tuy nhiên, hướng về Trung Quốc, quá khứ lại được long trọng mở rộng ra: Giáp ranh với tỉnh Cao Bằng, Việt Nam, trên lãnh thổ Trung Quốc, có một nghĩa trang tên gọi là Nghĩa Trang Long Châu. Nghĩa trang này có hai đặc điểm:<br /><br />1) Thứ nhất: Đây là nơi chôn cất những binh lính Tàu bị tử trận trong cuộc chiến Việt Hoa tháng 02/1979. Nghĩa trang Long Châu thuộc Quảng Tây Trung Quốc, nhưng trên bảng tên của nghĩa trang, ngoài chữ Hán còn có hàng chữ viết bằng tiếng Việt, ghi là: “NGHĨA TRANG LIỆT SĨ TRUNG VIỆT”. Như vậy lính Tàu xâm lược Việt nam năm 1979 với phương châm “Phá sạch, giết sạch”, nay nghiểm nhiên trở thành liệt sĩ Trung Việt. <br /><br />2) Thứ hai: Giết sạch nói ở đây chính là giết sạch nhân dân xã Đề Thám, thị xã Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng. Thế nhưng, điều khó tin nhưng có thật đã xảy ra: nhân kỷ niệm 30 năm đại họa xâm lược 1979, “Đảng Ủy, UBND, Hội đồng Nhân Dân, Ủy Ban Mặt Trận Tổ Quốc xã Đề Thám” đã kính viếng “Nghĩa Trang Liệt Sĩ Trung Việt” một vòng hoa với dòng chữ “Đời Đời Nhớ Ơn Các Liệt Sĩ Trung Quốc”. <br /><br /><br /><br />II. Tin tức cấp thủ đô<br /><br />Đầu tháng 02/2009, báo Hà Nội Mới, cơ quan ngôn luận của thành ủy Hà Nội, đã phổ biến một bài viết mang tựa đề: “Thu Phục Tướng Tài”. Bài này hết lời ca tụng tên tướng Hứa Thế Hữu của Trung Quốc. Tên tướng này tháng 02/1979 đã từng chỉ huy quân Tàu tàn phá Cao Bằng Lạng Sơn, chặt đầu vô số thường dân Việt Nam ở thôn Tổng Chúc.<br /><br />III. Tin tức cấp trung ương<br /><br />Trung tuần tháng 02/2009 dư luận trong nước tỏ ý bất bình cao độ trước sự việc nhà xuất bản Văn Học liên kết với công ty Văn Hóa Phương Nam xuất bản và phát hành bản dịch Việt ngữ tác phẩm “Ma Chiến Hữu” của nhà văn Trung Quốc tên là Mạc Ngôn. Tác phẩm này ca tụng những tên lính Trung Quốc đã tham dự trận chiến tiêu diệt “bọn man di” và đã ngã gục trong cuộc chiến kia như những anh hùng vĩ đại. Ban Văn Hóa Tư Tưởng Trung Ương của CSVN mặc nhiên chấp nhân sự phổ biến rộng rãi “Ma Chiến Hữu” trên khắp lãnh thổ Việt Nam. Có thể nói được rằng: nguyên nhân trọng yếu làm cho dư luận phẩn nộ là phần nhận định của nhà xuất bản về “Ma Chiến Hữu” đăng ở bìa sau của tác phẩm. Nhận định đó như sau: “Một cách nghĩ khác về chiến tranh, một cách ca tụng riêng về chủ nghĩa anh hùng, cuộc đối thoại giữa hai cõi âm dương, sự vướng lụy giữa con người và ma quỷ”. Nhận định vừa kể đã đối diện với hai phản biện:<br /><br />1) Chiến tranh tháng 02/1979 hiển nhiên là cuộc chiến xâm lược của bành trướng Bắc Kinh. Đương đầu với họa xâm lược, toàn dân Việt Nam đều có nghĩa vụ chông xâm lược. Không thể có”một cách nghĩ khác” về xâm lược. Vả lại nếu chấp nhận “một cách nghĩ khác” về chiến tranh tháng 02/1979 tai sao tháng 12/2008 khi tiểu thuyết “Rồng Đá” xuất phát từ cuộc chiến 1979 của nhà văn Vũ Ngọc Tiến, do nhà xuất bản Đà Nẵng ấn hành thì cả nhà xuất bản lẩn nhà văn đều bị chế độ Hà Nội đánh đấm bằng đủ loại hình phạt? <br /><br />2) Trong chiến tranh tháng 02/1979 không thể có “một cách ca tụng riêng về chủ nghĩa anh hùng.” Ở vào trường hợp chiến tranh xâm lăng và chống xâm lăng, anh hùng phải là những người Việt Nam đã bảo vệ bờ cõi Việt Nam bằng chính sinh mạng của mình. Anh hùng không thể có mặt trong đội quân xâm lăng.<br /><br />Kiểu nói “một cách nghĩ khác” hoặc “một cách ca tụng riêng về chủ nghĩa anh hùng” chẳng qua chỉ là những xảo thuật được chế độ Hà Nội xử dụng với mục đích biến quân xâm lược Bắc Kinh thành những bậc anh hùng Trung Quốc. Từ đó chống xâm lăng đại Hán bị xem là đã chống anh hùng Bắc Triều. Từ đó nhiệt tình chống Bắc xâm của quần chúng Việt Nam dần dần suy tàn. Và từ đó lính Tàu bước vào lãnh thổ Việt Nam thong dong như bước vào vùng đất không người. <br /><br />Tóm lai, từ xã ấp cho đến thủ đô Hà Nội, lên tận trung ương đảng, đâu đâu CSVN cũng tận tình thuyết phục người dân hãy cùng với đảng thể hiện tấm lòng tuyệt đối trung thành với mẫu quốc Trung Hoa. Bao giờ cũng phải tôn kính người Trung Quốc. Bao giờ cũng phải tích cực xóa bỏ tư tưởng thù ghét Trung Quốc xâm lược. <br /><br />Ngày xưa Lê Chiêu Thống bị nhân dân Việt Nam nguyền rủa vì đã “rước voi về dày mã tổ”. Ngày nay, muốn đo lường tội phạm phản quốc của CSVN, người Việt Nam cần lấy tội “rước voi” của Lê Chiêu Thống nhân lên gấp ba lần:<br /><br />1) Một là CSVN dâng đất, dâng biển cho “voi”. Mở cửa biên giới cho “voi” tự do tràn ngập lãnh thổ của Ông Cha.<br /><br />2) Hai là CSVN thẳng tay đàn áp, đàn áp rất dã man người Việt Nam nào dám chống Trung Quốc, dầu chỉ là chống đối trong tư tưởng.<br /> <br />3) Ba là CSVN tôn thờ quan thầy Trung Quốc đến độ họ đã và đang tìm đủ mọi phương cách nhằm đẩy nhân dân Việt Nam phải phục tòng Trung Quốc hiểu theo nghĩa “tâm phục”, dầu chỉ là tâm phục do tác động của nhồi sọ. Đó là lý do giải thích tại sao toàn bộ guồng máy thông tin, tuyên truyền của CSVN không ngừng vận dụng nhiều phương tiện tác động tâm lý khác nhau với mục đích làm cho người Việt Nam thành thực tin rằng Trung Quốc là đất nước của vĩ đại. Dân Trung Quốc thông minh và lương hảo. Lính Trung Quốc thiện chiến và anh hùng. Trung Quốc là đại ân nhân của Việt Nam. Tất cả những tuyên truyền dối trá vừa kể là những viên thuốc độc xoi mòn dần dần nhưng sâu rộng ý chí chống giặc Bắc xâm trong tâm khảm của quần chúng Việt Nam.<br /><br /><br />Trở lại với câu chuyện chuột và mèo trong ca dao Việt Nam. Chú chuột đã dùng bức tranh hài hước “Giỗ cha con mèo” để nguyền rủa dòng họ nhà mèo. Chú chuột nuôi dưỡng quyết tâm chống mèo để bảo vệ nòi giống chuột. Mang hình ảnh “Giỗ cha con mèo” đặt cạnh vô số hoạt cảnh tâng bốc Trung Quốc do đảng CSVN tận tình thủ diễn, dư luận nhận ra ngay rằng quả tim của CSVN đã hóa vôi, bộ óc của CSVN hiển nhiên không thể lớn hơn bộ óc của loài chuột.<br /><br />Đỗ Thái NhiênVIET NAM QUE HUONG TOIhttp://www.blogger.com/profile/17768876020603625276noreply@blogger.com1tag:blogger.com,1999:blog-7636341192878165251.post-19201832099780879252009-08-29T21:17:00.000-07:002009-08-29T21:20:11.007-07:00VIET CONG QUY LAY HOANG DE CHO TAU CONGHoàng Đế chóTrung Quốc Muốn Gì? <br />Hoàn Nguyên <br /><br />Việc đầu tiên là TQ (HĐchóTQ) muốn có tên đàn em dễ sai bảo, nói cho rõ là muốn có một bầy nô lệ và một bộ chính trị thái thú. Việc thứ nhì là HĐchóTQ ra lệnh cho bọn thái thú CSVN triều cống tài nguyên và khoáng sản của VN mà không cần phải hao tốn súng đạn và nhân mạng để xâm chiếm. Dưới thời phong kiến, 1000 năm đô hộ, người Tầu đã mất đi rất nhiều sinh mạng trong cuộc chiến xâm lược để chiếm giữ và cướp bóc tài sản của dân Giao Chỉ. Dưới thời đại CS Hồ Chí Minh thì HĐchóTQ chỉ cần một bầy thái thú Việt cộng là đã cướp được tài nguyên của VN.<br /><br />Triều Cống Lãnh Thổ Và Tài Nguyên<br /><br />Ngày xưa hai bà Trưng khởi nghĩa để chống lại tên thái thú Tô Định là người Tầu. Ngày nay bộ chính trị ĐCSVN đã làm thái thú cho Tầu và biến dân VN thành nô lệ. ĐCSVN cung cấp lao nô, nô lệ tình dục, nô lệ kinh tế và nô lệ chính trị. HĐchóTQ muốn chiếm lấy tài nguyên của VN thì chỉ cần chỉ tay ra lệnh thì bọn thái thú lập tức dâng hiến. Trong vòng 20 năm qua thì HĐchóTQ cứ tiệm tiến mà cướp dần tài nguyên của VN. HĐchóTQ vô hải phận VN để đánh bắt hải sản nên đã ra lệnh cho bầy thái thú ký hiệp ước triều cống vùng đánh cá chung ở vịnh Bắc bộ. Thế là người TQ vào vùng biển VN bắt cá, cua, tôm, mực, bào ngư trị giá hàng tỉ mỹ kim mà đem về mẫu quốc. Ngư phủ VN mà vô tình đến gần vùng đánh cá chung là bỏ mạng. Bọn TQ thì đâu bắn giết hết ngư phủ VN, phải chừa vài người chạy về mách lại với bà con lối xóm và chỉ cho biết rõ đâu là vùng cấm, chỉ dành riêng cho công dân của HĐchóTQ. Mặc khác HĐchóTQ lại ra lệnh cho bọn thái thú đàn áp, bịt mồm, bỏ tù, đánh đập ngư phủ VN và cấm họ than van, khóc lóc, cấm họ không được trả lời phỏng vấn của đài phát thanh, cấm họ đau khổ vì gia đình có người chết oan dưới lằn đạn của kẻ xâm lăng. Khi HĐchóTQ muốn mở rộng bờ cõi về hướng Nam thì các thái thú CSVN lại đồng ý ký kết thỏa hiệp cắm lại cột phân định lằn ranh biên gìới giữa Tầu và VN. Khi nghe biển Đông của VN có dầu hỏa thì HĐchóTQ ra lệnh cho bọn thái thú phải dẹp hết hợp đồng tìm kiếm và khai thác dầu hỏa với công ty dầu British Petroleum. Ngài Thủ Tướng thái thú được gọi về chầu HĐchóTQ và sau khi ngài Thủ Tướng nhận được chiếu chỉ của Hoàng Thượng thì lập tức có tin là TQ sẽ khai thác dầu ở biển Đông. Bìển Đông ở đây đồng nghĩa với khai thác dầu trong lãnh hải VN mà chả nghe ký kết hợp đồng hay hợp kín gì cả. Giờ đây HĐchóTQ lại muốn vào sâu trong lãnh thổ VN để lấy quặng mỏ nhôm. Giã tâm cướp tài nguyên của HĐTQ đối với VN ngày càng trắng trợn và bọn thái thú hay Hán ngụy trong bộ chính trị CSVN càng lúc càng bỉ ổi, quỵ lụy, hèn nhát và là một bọn mãi quốc cầu vinh.<br /><br />Nô lệ kinh tế<br /><br />Hàng hóa TQ thì cứ tha hồ tràn vào VN và giết chết những xí nghiệp VN làm cho công nhân VN thất nghiệp khiến họ phải đổi đời bất đắc dĩ. Đời sống công nhân đã khổ càng thêm khổ. Bắt các nhà đấu tranh dân chủ thì các tên thái thú chứng tỏ tài nghệ rình mò, theo dõi, áp bức, đàn áp trên cả tuyệt vời nhưng bắt hàng lậu từ TQ tràn qua biên giới thì đảng đui mù. VN có món hàng xuất cảng qua TQ rất ăn khách là phụ nữ trẻ tuổi, con nhà nghèo. Cả bộ chính trị thái thú làm ăn phát đạt nhờ làm ma cô. Kết quả kinh tế của 100 năm trồng người là nhập hàng và xuất gái. Như thế thì nô lệ kinh tế kéo theo nô lệ tình dục. Đảng CSVN ngày nay làm thương mại rất ưu việt theo mô hình kinh tế thị trường theo định hướng XHCN. CSVN nhập cảng TV, tủ lạnh, điện thoại, xe hơi, vật liệu xây dựng, rượu, thuốc lá, các dàn âm thanh nổi, hệ thống tường lửa ngăn chận internet, máy chụp hình, máy quay phim. Bọn thái thú ma cô cho xuất cảng gái, lao động, dầu thô, áo quần và hải sản và sắp đến là bauxite. Nhìn đi nhìn lại những nhà kinh tế kinh tế đại tài CSVN chỉ xuất cảng được những thứ trời cho và mua vào những thứ nhân tạo và đó là kết quả 100 năm trồng người ngu của bác Hồ. Cứ đem tất cả những nhà thông thái trên thế giới mà giao cho CS quản lý thì chỉ 5 năm sau, họ 50% sẽ trở thành thuyền nhân và 40% ở tù vì phát biểu linh tinh và 10% trở thành ma cô và tham nhũng. Người CS thì vẫn nói “ra ngõ gặp anh hùng” ngày nay phải đổi lại cho hợp thời trang XHCN là “vô đảng gặp tham nhũng, vô khám gặp anh hùng”. Luật sư Lê thị Công Nhân và Nguyễn Văn Đài, Bác Sĩ Lê Nguyên Sang, nhà báo Đìếu Cày, Linh Mục Nguyễn Văn Lý đều là anh hùng mà chỉ có thể gặp trong khám.<br /><br />Nô lệ chính trị<br /><br />Nhân dân ta anh hùng và thắng 3 đế quốc nghe rất oai hùng nhưng cứ so sánh lá quốc kỳ của TQ và lá cờ đỏ sao vàng của CSVN thì đã thấy sự nô lệ kiểu cờ mẹ đẻ cờ con. TQ thì cờ đỏ có 5 sao vàng, VN cũng cờ đỏ và một sao vàng. Tất cả quốc kỳ của các xứ cộng sản chỉ là các con tương cận. Đất nước ta thống nhất và độc lập nhưng dân ta thì không được quyền bầu cử Thủ Tướng, Chủ Tich Đảng, Chủ Tịch Nhà Nước. Các chức vụ này phải do HĐTQ chỉ định như các thái thú Tầu nhưng họ Việt. Ôi thật mỉa mai, chưa hết kinh tế thị trường theo định hướng XHCN thì nay ĐCSVN lại cho ra đời cái quái thai “Độc Lập Theo Định Hướng XHCN” mà HĐTQ bảo triều cống biển là dạ dạ để em làm, HĐTQ bảo triều cống dầu hỏa và bauxite thì thái thú CSVN liền muôn tâu bệ hạ để em sai bọn dân giao chỉ khai thác và dâng hiến.<br /><br />Ngày xưa Tô Định bắt dân giao chỉ xuống biển mò ngọc trai, lên rừng lấy ngà voi, mật gấu, nuôi tằm lấy tơ dệt lụa mà triều cống. Tô Định bắt gái đẹp mang về Tầu cho các quan. Ngày nay đảng CSVN thì triều cống bauxite, hải sản và bắt gái đẹp sang bán cho TQ. Chỉ có cái khác biệt giữa xưa và nay là ngày xưa các cô gái đẹp được triều cống cho quan mà ngày nay thì hạng cùng đinh, bệnh truyền nhiễm cũng được gái Việt phục vụ. Hồ Chí Minh đã trồng lên ĐCSVN một bầy quỷ chứ không phải người. Cây nào thì giống ấy. HĐTQ chỉ muốn tài nguyên thiên nhiên, khoáng sản và gái đẹp của VN mà không cần phải tổn thất một viên đạn. Bọn Hán ngụy trong bộ chính trị ĐCSVN đều hồ hởi, phấn khởi và nhất trí triều cống. HĐTQ chẳng cần phải mang quân xâm lăng làm gì cho hao tổn nhân lực mà chỉ cần ra lệnh cho các tên thái thú là xong. Nô lệ chính trị thì nguy hiểm như thế đó.<br /><br />"Bác Hồ" có công rước Tầu thì con cháu "Bác" có công triều cống. TQ chỉ cần tài nguyên của VN mà bọn thái thú thì quỳ gối dâng hiến thì hà cớ gì phải đánh chiếm làm gì cho mệt. Bọn thái thú CSVN đã dâng hiến cả đất nước cho HĐTQ. Tôm cá thì được đánh bắt tự do, dầu hỏa và bauxite thì được khai thác thả dàn như chốn không người. Bọn Việt cộng nô lệ chính trị và nô lệ kinh tế. Mặt khác thì cứ bắt người yêu nước bỏ tù nên các nước trên thế giới đều không ưa và nhất là NVHN luôn luôn chống đối. CSVN như con cá nằm trên thớt và đầu bếp Tầu cứ tha hồ chặt, tha hồ xào nấu. Nhưng cái khổ nhất chính là dân đen phải làm hết sức để cung cấp nguyên liệu cho HĐTQ hưởng. Dân Việt đâu rồi? Hãy khởi nghĩa để diệt bầy thái thú CSVN như ông cha đã làm. Lê Chiêu Thống đã chạy sang Tầu trốn biệt và sắp đến là bộ chính trị thái thú CSVN.<br /><br />Hoàn NguyênVIET NAM QUE HUONG TOIhttp://www.blogger.com/profile/17768876020603625276noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-7636341192878165251.post-11056620938025268972009-07-19T20:02:00.000-07:002009-07-19T20:05:08.285-07:00BAY GIO PHAI TRA NO SUNG SAN CHO BON TAU CONGVIET CONG DI GIAI PHONG HAY DI CUOP CUA GIET NGUOI<br />Theo nghĩa thông thường, “giải phóng” là cởi trói, là thay đổi hoàn cảnh sống theo hướng làm cho đời người trở nên êm ả hơn, hạnh phúc hơn. Tuy nhiên, sau 30-04-1975, người Việt Nam, đặc biệt là những người sanh sống tại miền Nam Việt Nam trước 1975 ngày càng tỏ ra hoài nghi về ý nghĩa của hai chữ “giải phóng” do chế độ Hà Nội xử dụng. Ngay giữa Saigon, đầu năm 1976, nhạc sĩ Trần Nhật Ngân là người đầu tiên đặt dấu hỏi về hồ sơ giải phóng. Dấu hỏi kia được gói ghém trong nhạc phẩm “Anh giải phóng tôi hay tôi giải phóng anh?”. Sau dấu hỏi của Trần Nhật Ngân, mọi người nhanh chóng nghiệm ra rằng: Đối với CSVN, “giải phóng” có nghĩa là cưỡng bách nhân dân phải từ bỏ thiên đàng để nhảy xuống hỏa ngục. Bây giờ, 34 năm đã trôi qua, chúng ta có thừa bình tĩnh để suy nghĩ về “cơn đau giải phóng”. Sau đây là những tình huống “bị” giải phóng điển hình: <br /> Nạn nhân đầu tiên của hành động giải phóng lại chính là con đẻ của Bắc Kinh và Hà Nội. Đó là Mặt trận Giải phóng Miền nam Việt Nam. Thực vậy, sau khi chiếm được miền Nam Việt Nam, Hà Nội vội vàng “giải phóng” Mặt trận Giải phóng Miền nam Việt Nam ra khỏi sân khấu chính trị Việt Nam. Nói cách khác Hà Nội đã giải tán MTGPMNVN không trống, không kèn, không một lời cảm ơn, không một lễ hạ cờ. Kế tiếp màn giải-phóng-Mặt-trận-Giải-phóng là sự việc hàng loạt cán bộ Hà Nội được tung ra để chiếm giữ vị trí lãnh đạo, đồng thời cũng là vị trí tham ô từ trong Nam ra tới ngoài Bắc, từ xã ấp lên tới trung ương. Đó là ý nghĩa của tình đồng chí giữa Cộng sản Bắc và Cộng sản Nam. <br /> Bây giờ chúng ta hãy xét tới mối “liên hệ giải phóng” giữa đảng CSVN và đất nước VN. Đất nước ở đây gồm nhân dân và lãnh thổ. <br /> “Giải phóng” nhân dân Việt Nam <br /> Sau 1975, đối với nhân dân Miền Nam Việt Nam, CSVN đánh các đòn giải phóng sau đây: giải phóng khỏi đời sống tự do để đưa vào những nhà tù khổ sai dưới mỹ danh “học tập cải tạo”. Giải phóng khỏi những ngôi nhà khang trang để “tự giác” tìm tới vùng kinh tế mới. Giải phóng khỏi quê hương thân yêu để trôi dạt tới những vùng đất tạm dung nằm rải rác khắp năm châu. Người Việt sinh sống tại hải ngoại khỏang 3 triệu người. Người Việt gục ngã trên đường vượt biên khoảng 500 ngàn người. Từ 1975 cho tới 1985 những người vượt biên bị gọi là phản quốc, bị đẩy ra biển trong chương trình vượt biên bán chính thức, vượt biên bất chấp những an toàn tối thiểu của những chuyến đi biển… Mặc dầu bị đối xử tàn tệ như vừa kể, lòng yêu gia đình, yêu quê hương hối thúc người Việt hải ngoại gửi tiền về trong nước ngày càng nhiều. Khối tiền to lớn kia đã che khuất hai chữ “phản quốc”. Người Việt hải ngoại được Hà Nội xảo trá tặng cho danh hiệu “những khúc ruột ngàn dặm của tổ quốc”. Rõ ràng là CSVN bất chấp liêm sỉ, sẵn sàng nói ngọt với người Việt hải ngoại chỉ để tiếp tục “giải phóng” túi tiền của những người trước kia đã bị CS ra tay hành hạ ở mức độ hiểm ác nhất. Đối với khúc-ruột-ngàn-dặm, “moi tiền” là mục đích chính. Đối với đồng bào sống ngay tại quốc nội CSVN đã đối xử ra sao? <br /> Trước tiên, hãy nói tới “Mẹ chiến sĩ”. Mẹ ở đây là những người đã dày công bảo bọc, che chở, tiếp tế cơm gạo cho đám cán binh Việt Cộng trong thời kỳ CSVN phải sống chui rúc ở hốc núi, hầm đất cùng đủ loại địa đạo… Ngày nay đám “con chiến sĩ” đã có quyền lực đầy mình, tiền bạc đầy túi. Thay vì đền đáp công ơn trời biển của Mẹ, đám con tai quái kia lại quay ra “giải phóng” nhà, “giải phóng” ruộng vườn của Mẹ và của vô số đồng bào khác. Công việc giải phóng yêu ma kia đã tạo ra tại Việt Nam một giai cấp mới: giai cấp dân oan. <br /> Giai cấp dân oan cộng với nông dân thất nghiệp phải chạy vào thành phố kiếm sống, cộng với giới phụ nữ chấp nhận “lấy chồng ngoại” để có được cơm áo cho gia đình, cộng với đông đảo nam nữ thanh niên sẵn sàng bán bắp thịt trong những chương trình “xuất khẩu lao nô”, cộng với khối quần chúng lớn lao không có cơ hội đi học, không có nghề nghiệp chuyên môn… Các bài toán cộng vừa nêu dẫn tới nhận định rằng: hầu hết lực lượng lao động của xã hội Việt Nam ngày nay chỉ có thể là lao động chân tay. Lao động kiểu này gọi là lao động “tay làm, hàm nhai”. Lợi tức của “lao động tay làm hàm nhai” gọi là lợi tức cơm chim. Thế nhưng, ngày cả cơm chim của nhân dân cùng khổ cũng bị CSVN tận tình “giải phóng”. Thực vậy, thời gian gần đây, dưới danh nghĩa cờ bauxite và cờ công tác xây dựng, CSVN vừa miễn thuế kinh doanh cho Trung Quốc, vừa mời gọi Trung Quốc tự do mang dân Tàu vào Việt Nam làm việc tại những nơi Trung Quốc trúng thầu, gọi là tụ điểm Tàu. Do được miễn thuế kinh doanh, Trung Quốc trở thành quốc gia độc quyền trúng thầu tại Việt Nam. Vì vậy, hiện nay từ Bắc chí Nam của lãnh thổ Việt Nam tràn ngập tụ điểm Tàu. Mỗi tụ điểm Tàu có trên dưới 2000 dân Tàu, hầu hết chuyên làm lao động tay chân. Đó là lý do giải thích tại sao giới lao động chân tay người Việt bị thất nghiệp và cơm chim của giới này đã bị người Tàu “giải phóng” với sự hỗ trợ tích cực của nhà cầm quyền Hà Nội. <br /> Như vậy là dạ dày của người dân đã trống rỗng. Liệu chừng có hay không hiện tượng rằng: bên trên cái dạ dày lép kẹp là quả tim và bộ óc hừng hực chống Tàu? Chính vì lo sợ lòng căm thù Tàu trong mỗi người Việt dâng cao, ngày 03-04-2009, chính phủ CSVN đã ký ban hành công văn số 1992/VPCP-QHQT cho phép thành lập học viện Khổng Tử tại Việt Nam. Tư tưởng Khổng không có tiền đề triết học, không có qui luật triết học. Nó không là tư tưởng biện chứng. Nó bao gồm những bài học rời rạc của Khổng Tử. Những bài học rời rạc kia khi đi vào thực tiễn đời sống của người Trung Quốc, người đời nhìn ra ba trọng điểm: <br /> - Trong gia đình: Người cha là nhân vật tối cao. Vợ con chỉ là những người phải tuyệt đối tuân lệnh gia trưởng. Trọng nam, khinh nữ là chân lý không cần chứng minh. Biết bao nhiêu tỷ phụ nữ đã chết vì “chân lý” quái ác vừa kể. Khổng Tử và đệ tử của Khổng không thể đưa ra bất kỳ lời giải thích nào. <br /> - Trong xã hội quốc gia: Vua là tối cao. Vua nắm quyền sinh, sát toàn dân. <br /> - Trong bang giao quốc tế: Trung Quốc là nước vua. Những quốc gia chung quanh chỉ là nước tôi. Trung Quốc có toàn quyền tùy nghi bành trướng. <br /> Ba trọng điểm nêu trên khi đã được nhồi nhét vào tim óc Việt Nam sẽ biến người Việt trở thành những nô lệ của Trung Quốc trên căn bản tư tưởng rằng: Trung quốc là nước vua, Việt Nam là nước tôi. Vì vậy, không còn nghi ngờ gì nữa, CS Hà Nội đang làm tay sai cho Trung Quốc trong nỗ lực dùng viện Khổng Học để “giải phóng” TÍNH Việt và TÌNH Việt ra khỏi con người Việt Nam, thay vào đó là tâm lý an phận thủ thường. Thường ở đây là con người chấp nhận thân phận hèn mọn trước gia trưởng, trước Đức Vua và trước “Trung Quốc vĩ đại”. <br /> “Giải phóng” lãnh thổ Việt Nam <br /> Câu chuyện cơm chim bị giải phóng đi kèm với sự việc tính Việt và tình Việt bị giải phóng cho thấy: Con người Việt Nam đang bị CSVN ra sức giải phóng cả thể chất lẫn tinh thần. Từ đó, không cần tốn một viên đạn, người Tàu đã nghiễm nhiên tràn ngập lãnh thổ Việt Nam. Bây giờ hãy bàn tới biên giới và hải giới. Tất cả người Việt Nam đều còn nhớ năm 1999 và 2000 CSVN ký hiệp ước dâng đất, hiến biển cho Trung Quốc. Từ đó hai hiệp ước kia, đặc biệt là bản đồ biên giới Việt Hoa bị CSVN triệt để giấu kín. Ngày 29-03-2009, trong Lời Kêu gọi Bất tuân Dân sự, Đại Lão Hòa Thượng Thích Quảng Độ yêu cầu chế độ Hà Nội hãy khai trình với Liên Hiệp Quốc thềm lục địa Việt Nam đúng theo đòi hỏi của luật biển 1982. Lời kêu gọi vừa nói có hậu ý tố cáo CSVN không dám lập hồ sơ khai trình bởi lẽ hầu hết thềm lục địa Việt Nam đã bị CSVN cống hiến cho Trung Quốc. Sự việc bản đồ biên giới bị giấu kín đi kèm với sự việc CSVN không dám làm thủ tục khai trình thềm lục địa cho thấy CSVN đã “giải phóng” đất đai và biển cả Việt Nam ra khỏi khối tài sản của tổ tiên để dâng cúng cho Trung quốc. <br /> Nói tóm lại, sau 34 năm cướp quyền cai trị đất nước, cái gọi là công lao giải phóng dân tộc của chế độ Hà Nội bao gồm các điểm trọng yếu sau đây: <br /> 1) Giải phóng ba triệu đồng bào ra khỏi quê hương để sống cuộc đời tị nạn khắp năm châu. <br /> 2) Giải phóng “cơm chim” của tuyệt đa số nhân dân lao động để mở đường cho nhiều vạn dân Tàu, lính Tàu vào Việt Nam kiếm sống bằng nghề lao động tay chân. <br /> 3) Giải phóng tính Việt, tình Việt ra khỏi tim óc VN để thay vào đó là tư tưởng Khổng với mục đích ngấm ngầm tạo hoàn cảnh tâm lý để người VN chấp nhận suy-nghĩ-kiểu-Tàu, sống-theo-trật-tự-Tàu. Trật tự gia trưởng. Trật tự trọng Nam, khinh Nữ. Trật tự vua tôi: vua là đảng, tôi là dân. Trật tự nước vua là Tàu, nước tôi là Việt. <br /> 4) Giải phóng đất Việt, biển Việt ra khỏi tầm tay Việt Nam để làm lễ vật triều cống cho vua Trung Quốc. <br /> Bốn khối tội ác giải phóng kể trên đã biến đảng CSVN thành tên phản quốc lớn nhất trong thế giới của các loại phản quốc./. <br />30-4-75 NGAY 0 NHUC CUA TAY SAI VIET CONG<br />I.- Một ngày để nhớ:<br /> Đối với tuyệt đại đa số người Việt trong các cộng đồng tị nạn CS ở hải ngoại, ngày 30 tháng tư hàng năm quả là một ngày đáng ghi nhớ -dĩ nhiên, ghi nhớ để buồn thương cho số phận của đất nước, của dân tộc… và của chính mình. Bởi vì, khởi đi từ ngày 30-4-1975, kẻ trước người sau, ước tính không dưới 3 triệu người dân Việt đã phải bỏ xứ sở ra đi, tán lạc khắp bốn phương trời hải ngoại. Đấy là chưa kể tới con số nhiều trăm ngàn đồng bào bất hạnh khác đã không tới được bến bờ tự do! Hoặc bỏ thây ở những khu rừng già Cao Miên, Thái Lan trong nỗ lực vượt thoát bằng đường bộ. Hoặc bị mất xác giữa lòng đại dương hay bị hải tặc bắt đi biệt tích trong những chuyến đi gian nan qua đường biển. Chẳng có thống kê nào cho biết số nạn nhân chính xác, nhưng chắc chắn là không dưới con số trăm ngàn!<br /> Liệu có cần nói thêm đến hàng trăm ngàn đồng bào khác, thuộc đủ mọi thành phần quân-dân-cán-chính, kể cả tu sĩ thuộc mọi tôn giáo ở miền nam, sau Tháng-Tư-Đen đã bị đẩy vào các nhà tù trá hình mang danh trại “cải tạo” được dựng lên khắp nước. Kẻ 5, 7 năm, người 10, 15, 17 năm! Cũng có những nạn nhân cho đến hôm nay, sau hơn ba thập niên dài dặc, vẫn biệt tăm biệt tích! Họ đã chết hay vẫn còn bị đảng và nhà nước cộng sản đọa đày đâu đó!?<br /> Và cũng từ cái ngày oan nghiệt ấy, bên cạnh những khu biệt thự sang trọng, những cao ốc khang trang mà chủ nhân ông là thiểu số lãnh tụ và những đại-gia-tư-bản-đỏ, trên 80 triệu đồng bào trong nước đang bị nhận chìm trong cảnh sống tối tăm, tủi nhục, thiếu cơm, thiếu áo, thiếu tự do, nhân quyền, nhân phẩm bị chà đạp. Trong số này còn có hàng chục ngàn thanh niên, thiếu nữ bị bán sức lao động cho ngoại bang!<br /> Như thế, ngày 30 tháng tư dương lịch hàng năm quả là một ngày đáng để toàn dân Việt Nam, ở trong cũng như ngoài nước tưởng niệm, ghi nhớ. Không cần phải có một cố gắng nào, tự nó đã khắc sâu trong tâm tưởng mỗi nạn nhân của chế độ bạo tàn cộng sản, dù ở quốc nội hay đang sống kiếp lưu vong nơi xứ người.<br /> Nhưng hẳn không chỉ là ghi nhớ và tưởng niệm.<br /> II.- Một ngày để suy tư về Việt Nam hôm nay:<br /> Một Việt Nam bên bờ vực thẳm<br /> Kể từ 30-4-1975, toàn thể lãnh thổ Việt Nam bị đặt dưới sự lãnh đạo của một tập đoàn những kẻ bất nhân, bất tài, thất đức thuộc trung ương đảng bộ cộng sàn:<br /> * Chúng đã nhân danh người vô sản để thu gom ruộng vườn, đất đai, nhà cửa, sản nghiệp của tư nhân, của các tổ chức, hiệp hội, tôn giáo nói là để chia cho người nghèo. Nhưng thực tế, chúng đã cùng nhau chia chác để sống một cuộc đời vương giả trên những mảnh đời tang thương, rách nát, đói cơm thiếu áo, mất tự do, nhân phẩm của hơn 80 triệu đồng bào ở quốc nội.<br /> * Nhân danh người lao động cùng khổ để xây dựng đảng cộng sản dưới cái chiêu bài gọi là “Xã Hội Chủ Nghĩa”, ngày nay, 15 tay gộc trong Bắc Bộ Phủ đã công nhiên phản bội lại giới này khiến cho cả triệu công nhân đang bị vắt kiệt sức lao động bởi những chủ nhân ông ngoại quốc. Những cuộc đình công triền miên với sự tham dự của hàng chục, hàng trăm ngàn công nhân tại các khu chế xuất, các doanh nghiệp ở Sài Gòn, Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, bất chấp sự canh chừng của các công đoàn nhà nước, đã giúp cho công luận thấy được tình trạng khốn cùng của mấy chục triệu người dân lao động Việt Nam hôm nay.<br /> * Để trả nợ quan thày Bắc Kinh trong những năm được viện trợ vũ khí, bom đạn để theo đuổi cuộc trường chinh xâm lược miền Nam, nướng cả triệu thanh niên vào cuộc chiến, gây nên cảnh chết chóc đau thương, tan cửa nát nhà cho biết bao gia đình nạn nhân ở miền nam vĩ tuyến 17, ngày nay chúng công khai bán đứng lãnh thổ và lãnh hải cho kẻ thù truyền kiếp của dân tộc:<br /> 1- Vẽ lại bản đồ ranh giới để chính thức dâng hiến Ải Nam Quan, Thác Bản Giốc và hàng chục ngàn cây số vuông đất đai của cha ông cho TC!<br /> 2- Nhắm mắt để cho Bắc Kinh công khai sáp nhập hai đảo Trường Sa và Trường Sa vào quận Tam Sa của chúng.<br /> 3- Bất chấp sự công phẫn của nhân dân, kể cả những thành phần trong đảng, Nguyễn Minh Triết và Nguyễn Tấn Dũng, với sự đồng tình của Nông Đức Mạnh, Nguyễn Phú Trọng, đã thỏa thuận cho hàng ngàn người Hoa tràn vào Tây Nguyên khai thác mỏ Bô-Xít, tác hại cho môi sinh, đe dọa sinh mạng của đồng bào địa phương, trong mưu toan mở đường cho mưu đồ bành trướng để Hán hóa đất nước ta!<br /> Để khóa miệng đồng thời bịt mắt người dân, họ mở chiến dịch: <br /> Một mặt huy động các lực lượng an ninh công an cảnh sát vũ trang rình mò, khủng bố, bắt bớ những người lên tiếng đối kháng, cho dẫu bằng những phương tiện ôn hòa, không vượt ra ngoài những quy định của công pháp quốc tế, kể cả cái gọi là Hiến Pháp của chế độ.<br /> Mặt khác, họ dùng 600 tờ báo và cả chục đài phát thanh, phát hình để tuyên truyền, xuyên tạc, bóp méo sự thật. Kết quả là những con người kiên cường, bất khuất như các luật sư Nguyễn Văn Đài, Lê Thị Công Nhân, linh mục Nguyễn Văn Lý, cô Phạm Thanh Nghiên, nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa, nhà báo Nguyễn Văn Hải tức Blogger Điếu Cày cùng với nhiều tên tuổi khác đã bị đẩy vào nhà tù.<br /> Hệ quả của vụ xử 8 giáo dân Thái Hà qua thái độ hành xử phi luật pháp của hệ thống pháp lý, báo chí truyền thông Hà Nội (dẫn tới việc các nạn nhân quyết định kháng cáo và khởi tố tờ Hà Nội Mới và kênh truyền hình VTV1 vì có những bài tường thuật xuyên tạc vẫn trong tình trạng nhập nhằng thiếu minh bạch) và vụ công an quận Gò Vập công khai dùng áp lực cưỡng chế luật sư Lê Trần Luật không cho ông lên phi cơ ra Hà Nội hôm 03-3-2009 cùng những hành vi khám xét bắt bớ nhân viên văn phòng của ông những ngày sau đó… cũng là những vấn để để mọi người phải suy tư nhân ngày 30-04 năm nay.<br /> Một Việt Nam bất khuất.<br /> Cho dù những khó khăn, cay nghiệt chất chồng, cho dù bị rình mò, bị đe họa, khủng bố, đàn áp, kể cả tù đày và sự an toàn sinh mạng, cao trào đấu tranh của quần chúng chống lại sự ác ở trong nước vẫn tiếp tục dâng cao và đang bước vào giai đoạn quyết liệt.<br /> Từ giai đoạn đấu tranh tố giác những hành vi tán ác, độc tài phi dân chủ, xúc phạm nhân quyền, nhân phảm của đảng và nhà nước CS do những cá nhân, những nhóm nhỏ mang tính cục bộ chủ trương, trong thời gian gần đây nỗ lực đấu tranh của đồng bào quốc nội đã chuyển vào một tư thế mới mang tính tập thể và đồng bộ: tư thế quần chúng. <br /> Khởi đầu là những đợt nông dân từ khắp các tỉnh miền Bắc lũ lượt kéo về vườn hoa Mai Xuân Thưởng ở Hà Nội và bà con thuộc các tỉnh hậu giang, tiền giáng ở miền Nam tìm vể văn phòng 2 Quốc Hội ở Sài Gòn để khiếu kiện đòi lại tài sản, đất đai đã bị đảng và nhà nước cướp trắng. Tiếp đến là những buổi cầu nguyện với sự hướng dẫn của đông đảo linh mục, tu sĩ, có lúc lên tới cả chục ngàn giáo dân ở Tòa Khâm Sứ cũ, ở giáo xứ Thái Hà, Hà Nội, ở Dòng Chúa Cứu Thế đường Kỳ Đồng Sài Gòn để đòi phục hồi công lý, nhân quyền và nhân phẩm VN. Và gần đây nhất là những cuộc biểu tình, rải truyền đơn, treo biểu ngữ tại những nơi công cộng ở Sài Gòn, Hà Nội và các tỉnh thị do tập thể thanh niên, sinh viên chủ trương với mục tiêu chống âm mưu xâm lăng lãnh thổ, lãnh hải của Trung Cộng, và qua đó gián tiếp cảnh cáo ý đồ bán nước, nhượng bộ kẻ thù phương bắc của đảng và nhà nước CS Việt Nam.<br /> Đây là những hiện tượng cấm kỵ trong các chế độ cộng sản. Nhưng nó đã thực sự xảy ra dưới ánh sáng mặt trời, trước sự chứng kiến của công luận và đã được thu vào ống kính của truyền thông quốc tế. Nó xảy ra không chỉ một hay hai ngày, mà trong nhiều tháng ngày liên tiếp.<br /> Giới trí thức, đặc biệt là giới luật sư đã bắt đầu có những động thái ngoạn mục. Khởi đâu là các luật sư Nguyễn Văn Đài, Lê Thị Công Nhân quyết liệt lên tiếng, chấp nhận ngồi tù, dứt khoát không khuất phục bạo quyền. Tiếp theo là tiếng nói của luật sư Trần Lâm và gần đây nhất là luật sư Lê Trần Luật và toàn thể các luật sư và nhân viên trong văn phòng Luật sư Pháp quyền của ông dấn thân bảo vệ những nhà dân chủ ở miền Bắc, công khai đứng ra bào chữa cho 8 giáo dân Thái Hà, can đảm đương đầu với mọi thủ đoạn đe noi, khủng bố trắng của đảng và nhà nước cộng sản xuyên qua những hành vi công an vũ trang áp giải ông ra khỏi phi trường Tân Sơn Nhất không cho lên phi cơ ra Hà Nội tiếp xúc với thân chủ, cũng như xuyên qua trường hợp bà Tạ Phong Tần và luật sư Nguyễn Quốc Đạt thuộc văn phòng ông cũng bị khủng bố… cho thấy những chỉ dấu lạc quan đã xuất hiện trong hàng ngũ những người am tường luật pháp, và nói chung giới trí thức ở quốc nội hiện nay. Trong khi nhà nước càng ngày càng tỏ ra khiếp nhược trước kẻ thù phương Bắc, cam tâm bán đất, dâng biển cho Bắc Kinh thì giới luật gia Việt Nam đã nối tiếp nhau đứng dậy theo gương nhà tranh đấu lừng danh của Trung quốc Cao Trí Thịnh, một luật sư đã hiến trọn cuộc đời cho lý tưởng bảo vệ công lý và sự thật cho đồng bào ông qua những lần tự nguyện bào chữa cho các tín đồ Pháp Luân Công và các tín đồ Kitô Giáo. Bất chấp những đòn thù của nhà cầm quyền cộng sản Bắc Kinh trong nhiều đợt bị giam giữ kể cả hiện nay ông đang bị hành hạ trong ngục tối, ông vẫn nêu cao khí tiết của người trí thức mang biểu tượng bậc đại trượng phu thời cổ là “uy vũ bất năng khuất”. Được biết để tránh những đòn thù tiểu nhân của cơ quan mật vụ Bắc Kinh, vợ con luật sư Cao Trí Thịnh đã được những bạn bè đồng chí hướng liều thân đưa trốn qua Thái Lan và hiện đã xin tị nạn chính trị tại Hoa Kỳ.<br /> Điều quan trọng là con số những đảng viên CS và những viên chức nhà nước bỏ đảng, bỏ cơ quan cũng tăng theo cấp số nhân. Nguồn tin từ trong nước cho hay trong thời gian qua đã có tới trên 7000 cán bộ trung cấp từ trung ương tới địa phương đã tự ý rời bỏ nhiệm sở ra làm ăn với các công ty tư nhân do người ngoại quốc làm chủ. Cùng lúc nhiều ngàn viên chức có trách nhiệm gìn giữ an ninh tại nông thôn cũng đã bỏ về với ruộng vườn sau khi phát hiện đối tượng rình mò, theo dõi của họ không ai khác hơn là chính thân nhân, láng giềng của họ. Trong khi ấy, con số những đảng viên cộng sản thâm niên, kể cả những thành phần có địa vị trong cơ chế đảng và nhà nước công khai lên tiếng chống báng hoặc trả lại thẻ đảng cũng tiếp tục tăng lên. Tiêu biểu như cố giáo sư Hoàng Minh Chính hoặc cựu tướng Trần Độ. Những nhà thơ nhà văn như Chế Lan Viên, Nguyễn Khải từng một thời cúc cung tận tụy phục vụ đảng, nhưng khi chết đã để lại những bài thơ, những trang hồi ký vạch trần bộ mặt thật phản dân hại nước của chế độ đương quyền dưới sự chỉ đạo sắt máu của đảng CS. Câu “Sống không thể nói, Chết mới được ra lời” ứng vào trường hợp Chế Lan Viên và Nguyễn Khải không còn gì chính xác hơn.<br /> Trong khi ấy, cũng không thiếu những người tuy còn đang phải sống trong lòng chế độ đã vượt qua được nỗi sợ hãi thường tình để can đảm cất lên tiếng nói trung thực của mình. Chúng tôi muốn nói tới những nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa ở Hải Phòng (hiện đang bị cộng sản bỏ tù), Vũ Cao Quận, Bùi Ngọc Tấn, Tạ Duy Anh. Ngoài ra, chúng tôi cũng muốn nói tới người nhạc sĩ lão thành từng có mặt ngay từ những ngày đầu khi cộng sản còn ngụy trang dưới nhãn hiệu Việt Minh là nhạc sĩ Tô Hải. Năm nay ông đã 83 tuổi. Hơn một thập niên trước, năm 1995 ông khởi sự viết tác phẩm có tên là “Hồi ký của một thằng hèn”. Sở dĩ ông đặt cho tác phẩm của ông một cái tên lạ thường như vậy là mỗi khi duyệt lại những trang đã viết ông vẫn thấy tuồng như ông chưa vượt ra khỏi được nỗi sợ hãi “hèn hạ” luôn ám ảnh mình khiến cho khi viết phải cân nhắc, dè dặt, không dám nói hết những điều mình nghĩ và những sự kiện mình đã kinh qua trong mấy chục năm sống trong đảng, nhất là viết xong đã lâu mà chưa đủ can đảm để gửi tới người đọc. Nhưng cuối cùng vào cuối năm 2008, bản thảo “Hồi ký của một thằng hèn” đã tới tay những người chủ trương tủ sách Tiếng Quê Hương. Tô Hải đích thân nhờ tủ sách ấn hành để giới thiệu đứa con tinh thần được viết nên bằng máu và nước mắt của ông đến với độc giả hải ngoại. Nếu không có gì trở ngại vào phút chót, tác phẩm hi hữu này sẽ đến tay người đọc vào cuối Tháng-Tư-Đen 2009.<br /> Đọc tác phẩm của Tô Hải chúng ta sẽ nhận ra hai điều. <br /> Thứ nhất: trong hàng ngũ những đảng viên kỳ cựu của đảng CSVN, theo nhận định của tác giả họ Tô, tuyệt đại đa số đã hoàn toàn chán đảng, chỉ chờ có dịp, nhất là khi loại bỏ được cái mặc cảm sợ hãi, là nhất loạt sẽ quay lưng lại với đảng. <br /> Và thứ hai: qua chứng từ của tác giả cho thấy dù trong cảnh ngộ nào tinh thần bất khuất của dân tộc vẫn tiềm tàng trong huyết quản mọi người. Và đấy cũng là điều để chúng ta suy gẫm nhân 30-4 năm nay.<br /> III.- Một ngày để quyết tâm <br /> Buồn, đau, tiếc, hận là những tình cảm tự nhiên của chúng ta mỗi khi nghĩ về Tháng Tư Đen. Nhưng những tình cảm ấy chỉ có giá trị tích cực khi mỗi người biết chuyển hóa nó thành hành động, trong quyết tâm dứt bỏ chế độ tham tàn, bạo ngược cộng sản để xây dựng một nước Việt Nam mới, trong đó mọi người dân được sống trong một thể chế tự do, nhân quyền, nhân phẩm được bảo đảm.<br /> Nhận định rằng cuộc đấu tranh chống cộng của toàn dân Việt Nam hôm nay đã chuyển vào một tư thế mới. Từ giai đoạn cá nhân, cục bộ, nó đã đi vào thế quần chúng. Cái ám ảnh về nỗi sợ hãi bị rình mò, khủng bố thuở nào đã giảm bớt. Những người Dân Oan bị tước đoạt ruộng vườn, tài sản, tín đồ các tôn giáo bị cấm cách hoặc bị xách nhiễu trong khi bày tỏ niềm tin đã dám công khai bày tỏ lập trường, quan điểm của mình. Họ trông chờ rất nhiều ở sự tiếp tay của các cộng đồng người Việt ở hải ngoại, không chỉ bằng những trợ giúp vật chất, bạc tiền mà còn là những yểm trở về mặt tinh thần cùng những nỗ lực vận động dư luận quốc tế.<br /> Chúng ta vẫn cần có những cuộc biểu tình để bày tỏ lập trường dứt khoát với bạo quyền cộng sản và bọn tay sai. Nhưng, nếu chỉ có thế thì vẫn chưa đủ. Một cách thiết thực, từng người, từng gia đình phải là những chiến sĩ hậu phương để khi cần sẵn sàng đóng góp phương tiện gửi về tiếp trợ cho những cá nhân cũng như các phong trào đấu tranh ở quốc nội. Trong dịp Tháng-Tư-Đen năm nay, một số tổ chức có sáng kiến phát động chiến dịch dứt khoát không về cũng không gửi tiền bạc về trong nước. Đây là một hành động mang tính biểu tượng để nói cho đảng và nhà nước CS thấy ý chí kết đòan của tập thể người Việt chúng ta ở hả ngoại. Điều này không hề có ý nghĩa là ngăn cản mọi người không được về thăm quê hương và người thân.<br /> Trong nỗ lực góp phần một cách cụ thể và thiết thực vào cuộc đấu tranh chung, về thăm quê hương, thân nhân, bằng hữu cũng là một cách để biểu lộ tinh thần của người quốc gia không chấp nhận chế độ cộng sản, miễn sao khi về chúng ta đừng bao giờ quên mình là người tị nạn, từng một thời là nạn nhân của chế độ đương quyền khiến phải bỏ xứ sở ra đi. Không ai đòi buộc những người về phải tham gia trực tiếp vào những cuộc đấu tranh chống chế độ, kể cả bằng lời nói có thể dẫn tới những hệ lụy cho sự an toàn cá nhân. <br /> Với ý thức của người tị nạn cộng sản, trong khi xử kỷ tiếp vật, luôn giữ lối sống chừng mực, dứt khoát loại bỏ thái độ huênh hoang “áo gấm về làng” của những kẻ vô lương tâm, “ăn cháo đá bát”, cậy có tiền mang về để ăn chơi thỏa thích, chà đạp lên nỗi đau của đồng báo. Đừng bao giờ quên rằng mình đang là cư dân của các quốc gia tự do, dân chủ. Hãy sống xứng đáng với tư cách ấy. Hãy thẳng thắn cho thân nhân, bạn bè và mọi người biết mình đã và đang sống ra sao tại các quốc gia tạm dung. Chính từ đấy gián tiếp cho đồng bào quốc nối thấy được cuộc sống tù túng, bất hạnh mà họ đang phải đối diện từng ngày từng giờ trên quê hương.VIET NAM QUE HUONG TOIhttp://www.blogger.com/profile/17768876020603625276noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-7636341192878165251.post-40843398604045130952009-07-19T19:57:00.000-07:002009-07-19T20:01:10.897-07:00VIET CONG VAN CHUA CHIU SAM HOI TOI AC GIET NGUOI VIETVIET CONG GIET NGUOI VIET : NOI DA XAO THIT <br /> - Trên truyền hình Pháp tối 15 tháng 5 năm 2007, trong buổi chuyển giao quyền lực cho ông Sarkozy, ngồi trước lá cờ Pháp và EU, vẻ mặt tươi sáng và nhẹ nhõm, cựu tổng thổng Jacques Chirac nói: “Một đất nước là một gia đình. Mối liên hệ đoàn kết chúng ta là tài sản quý giá nhất của chúng ta”. <br /> - Tài sản quý giá nhất của CSVN là cái nồi da xáo thịt do “đỉnh cao trí tuệ” mafia CSVN phát minh. <br /> - Nhiều người nói rằng Boris Yeltsin, người đánh đổ đảng Cộng Sản Đông Âu tại Nga đã chí lý khi chủ trương rằng "Cộng sản không thể sửa đổi, chúng chỉ đáng bị thay thế". <br /> 1- Không giống thiên hạ: <br /> - Sau trận Gettysburg 1863, tổng thống Lincoln cúi đầu ngậm ngùi : “Những người lính Miền Nam hay Miền Bắc chết tại nơi đây đều chết cho đất nước Hoa Kỳ”. Kết thúc nội chiến Nam–Bắc Hoa Kỳ 1860–1865, binh sỹ bại trận Miền Nam Hoa Kỳ được thoải mái về quê, lại được cấp ngựa, cấp lương thực để có thể sinh sống và tái tạo cuộc đời. Các sỹ quan bại trận vẫn được cho giữ gươm. <br /> - Năm 1989, bức tường Berlin của Đông Đức bị sụp đổ nhưng Tổng Bí thư Đông Đức Erik Honecker dù bị kết nhiều tội vẫn không bị đầy đọa. Chính phủ Tây Đức vẫn đổ ra nhiều ngàn tỷ đức mã nuôi dân Đông Đức và vực Đông Đức vượt thoát tình trạng nghèo và kém phát triển. <br /> - Sau Thế giới Đại chiến II, Hoa Kỳ và Đồng minh chỉ đưa bọn thủ lĩnh Quốc Xã và Phát Xít ra tòa án Quốc tế, nhưng lại lập tức bỏ tiền viện trợ tái thiết cho hai kẻ cựu thù Nhật và Đức để chỉ trong vòng vài thập niên, hai nước này cũng giàu có không kém Hoa Kỳ. <br /> - Hòa giải hòa hợp dân tộc là sự nghiệp thật là thiêng liêng và cao cả của người VN thật sự ái quốoc... nhưng csVN không thực tâm thi hành điều đó. <br /> - Hiệp định Paris 1973 đã ghi: “Thực hiện hoà giải hòa hợp dân tộc, xóa bỏ thù hằn, cấm mọi hành động trả thù và phân biệt đối xử với những cá nhân hoặc tổ chức đã hợp tác với bên này hoặc bên kia” (đ.11) <br /> - Vậy mà những người CS chiến thắng đã quản chế, giam giữ hàng trăm ngàn nhân viên hành chính, chuyên gia kỹ thuật, nhà khoa học xã hội, chính trị…, kể cả những người không hề cầm súng và gọi tất cả là ngụy quân, ngụy quyền. Có người chịu tù đầy đằng đẵng suốt 17 năm. Chẳng những thế, con cái, anh em, họ hàng của họ cũng bị kỳ thị, bị phân biệt đối xử, bị ngáng trở học hành, bị gây khó dễ trong mưu sinh. Hàng vạn người thuộc giới tư sản và gia đình “ngụy” bị vứt vạ vật lên các vùng kinh tế mới. <br /> - Hàng loạt nhà tù trắng trợn, nhà tù trá hình được dựng lên để cùm kẹp, để cải tạo, để giáo dục, để chỉnh huấn… với đằng đẵng thời gian và muôn vàn phương thức đầy ải. Cho đến con cháu, họ hàng của những người tù, những “cải tạo viên” cũng bị phân biệt đối xử, bị tước bỏ bớt nhân quyền so với cái nhân quyền chung của dân Việt Nam vốn đã như “miếng da lừa”. Đến nỗi hàng vạn, hàng triệu người phải cắn môi, gạt nước mắt giã từ bè bạn, chia tay họ hàng, từ bỏ tài sản, rời bỏ quê hương đi biệt xứ. <br /> - Ta có thể không bằng lòng với sự “giận cá chém thớt” khá tàn nhẫn, nhưng không thể không ngậm ngùi xót xa khi đọc những dòng này: “Toàn thắng rồi, tổ quốc xã hội chủ nghĩa quên phắt cam kết thực hiện hòa giải và hòa hợp dân tộc. Tổ quốc bỏ tù và hạ nhục hàng triệu người. Tổ quốc đánh tư sản, tống cổ con cái “ngụy quân ngụy quyền” ra khỏi trường học và lùa đi vùng kinh tế mới. Tổ quốc khống chế và hăm dọa bằng công an thành, công an tỉnh, công an huyện, công an phường. Biết dân chúng không còn chịu đựng được nữa và muốn bỏ nước ra đi, tổ quốc đứng ra tổ chức vượt biên bán chính thức để lấy tiền chuộc mạng những người muốn chạy trốn nanh vuốt của mình. Tổ quốc hành động như bọn giặc cướp. Đến khi bị dư luận thế giới lên án dữ dội vì hành động bỉ ổi này, tổ quốc dẹp luôn đợt vượt biên bán chính thức và dĩ nhiên không trả lại tiền. Tổ quốc đểu cáng và lật lọng. Đối với những người ra đi, tổ quốc là sóng gió, hải tặc, là cái chết trong bụng cá, may mắn hơn, là những ngày ê chề trong những trại tập trung trước khi tìm được một quê hương mới. Tổ quốc là một dĩ vãng cần quên đi”. <br /> Thật là không giống ai !!! <br /> 2- Không giống cha ông : <br /> - Ngay cả đối với bọn ngoại xâm như binh sỹ Nguyên Mông và bọn giặc Minh mà sau khi đánh bại chúng, các vua quan nhà Trần, nhà Lê vẫn cung cấp lương thực, thuyền bè cho họ trở về quê quán. <br /> - Cái sự độc ác đã gây nên thảm cảnh và hận thù đằng đẵng sau cuộc chiến 1975 hoàn toàn không do nhân dân Việt Nam gây nên. Bản tính nhân dân ta vốn không như vậy. Cũng không phải tất cả những người cộng sản đều muốn như vậy. Tội ác ấy chỉ có thể gây nên bởi những lãnh tụ cộng sản kiểu như Lê Duẩn, Lê Đức Thọ… <br /> 3- Mafia CSVN phải chịu trách nhiệm đối với những con số ghê rợn thế này: <br /> - Phía Bắc VN: <br />- 1.1 triệu liệt sĩ; <br />- 559.200 thương bệnh binh; <br />- hơn 300.000 người mất tích; <br />- hơn 2 triệu dân thường bị chết; <br />- hơn 2 triệu người lớn và trẻ em bị tàn tật vì bom đạn v.v.... <br /> - Phía Mỹ: 58.900 người cả nam lẫn nữ. <br /> Đây phải là nỗi đau chung. Và, trước cái "đống xương vô định đã cao bằng đầu" ấy, trách nhiệm phải thuộc về tất cả những ai đã "gây cuộc binh đao" quá tàn khốc, quá lâu dài như vậy! <br /> - Phía VNCH: Những con số thống kê trên còn khuyết hẳn một mảng rất lớn. Đó là con số những liệt sĩ, những thương bệnh binh đã từng ôm súng đứng trong đội quân của tổng thống Ngô Đình Diệm, thủ tướng Nguyễn Khánh, tổng thống Nguyễn Văn Thiệu.... Ai mạc mặt cho họ, ai gọi hồn cho họ??!! <br /> Chỉ e rằng, còn rất nhiều người mẹ, người vợ, cũng có chồng, có con là người Việt Nam, cũng đã từng ra trận và từng ngã xuống trên mảnh đất này, nhưng chẳng những không được ai đoái hoài, mà còn bị đẩy sang một thế giới ghẻ lạnh. Họ vừa mang chung nỗi đau mất chồng mất con của người phụ nữ, lại còn chịu chồng chất thêm cái đau bội phần của sự phân biệt đối xử, sự kỳ thị, thậm chí hất hủi. <br /> Ai giúp họ tìm kiếm hài cốt chồng con? Ai cưu mang, chăm sóc những ngày sống tàn sót lại và vong linh họ mai sau ?<br /> 4- Xã hội Việt Nam ngày nay : <br /> Xã hội Việt Nam ngày nay tệ hơn nhiều dưới quyền Sài Gòn : <br />- tham nhũng tràn lan hơn, <br />- dân chúng nghèo khổ hơn, <br />- xã hội đồi trụy hơn, <br />- con người dối trá hơn, <br />- học đường nhiều tệ đoan hơn, <br />- bệnh viện thiếu thốn tồi tàn hơn, <br />- đường xá bụi bậm, nhầy nhụa hơn, <br />- tai nạn giao thông thảm khốc hơn.<br /> Cho nên, chẳng có gì đáng kiêu hãnh cả! <br /> 5- Làm sao có thể quên quá khứ được! Cũng không thể gác lại quá khứ! <br /> - Cho nên tôi rất mủi lòng nhưng không đồng ý với Ng. Gia Kiểng khi ông chua chát gắt gao : “Tổ quốc là một dĩ vãng cần quên đi”. <br /> - Tôi cũng không đồng ý với những người lãnh đạo cộng sản khi kêu gọi: “Hãy gác lại quá khứ”. <br /> - Làm sao có thể quên quá khứ được. Cũng không thể gác lại quá khứ. Có điều, chúng ta cần nhắc nhở nhau cái triết lý sống tích cực này: Quá khứ rất không đáng kể so với hiện tại, hiện tại càng không đáng kể so với tương lai. <br /> 6- Muốn có thể hòa giải, hoà hợp dân tộc <br /> - Cơ sở cốt lõi của vấn đề phải là dân chủ, tự do, bình đẳng thật sự. <br /> - Vì vậy, chừng nào còn chưa thiết lập được nền dân chủ tự do đúng nghĩa của nó ở VN thì chừng ấy vẫn chưa xóa được mặc cảm, thành kiến,... chưa có thể hòa giải, hoà hợp dân tộc được. Nếu chỉ bằng những khẩu hiệu suông hay bằng những chiến thuật kinh tế cụ thể thì sứ mạng hoà giải, hoà hợp và đoàn kết dân tộc sẽ khó hoàn thành. <br /> - Cụ Nguyễn Hộ, một nhà lãnh đạo cộng sản kỳ cựu, khi bàn về hòa giải hòa hợp dân tộc đã tỏ ra thấu đáo khi viết : “Chuyên chế độc tài đã từng bị lịch sử lên án, hoàn toàn không hề là ước mơ, niềm hy vọng của nhân dân quần chúng và tất nhiên nó không có sức thuyết phục; nhưng tại sao lại dựa vào nó để thực hiện hòa giải, hoà hợp và đoàn kết dân tộc ?” <br /> Hãy dứt khoát quẳng cái ách cộng sản đã trót quàng lên cổ dân tộc đi! <br />Cắt hẳn cái đuôi “định hướng xã hội chủ nghĩa” đi!VIET NAM QUE HUONG TOIhttp://www.blogger.com/profile/17768876020603625276noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-7636341192878165251.post-16629981714109975312009-02-08T20:48:00.000-08:002009-02-08T20:53:46.168-08:00Hau qua cua Duong loi cai tri tan doc cua Viet CongNói láo như vẹm!<br /><br />Không phải chỉ riêng sự tàn bạo, sự chà đạp nhân quyền làm cho CS nổi tiếng mà chính là những sự tuyên truyền dối trá lừa bịp của CS. Qua lịch sử, cứ thẳng thắn nhìn những sự kiện đã xẩy ra dưới chế độ CS, và nghe những gì CS đã nói và đang nói, một người dân nghèo vô sản, ít học nhất cũng phải thở dài ngao ngán, đấm ngực, kêu trời không thấu… <br /><br />Hãy phân tích một cách khách quan các “lời ác ậy,” “cương lĩnh đảng CS,” “chỉ thị chính phủ,” “Hiến pháp,” “nghị quyết,” “công hàm…” và rồi lại nhìn những gì CS đã làm… tất cả đều là công trình sáng tạo đến tột đỉnh của sự lừa phỉnh, đánh lận con đen, tráo trở…<br /><br />Thời buổi văn minh dân chủ, ai cũng hiểu là văn bản pháp lý cao nhất của một quốc gia dân chủ là hiến pháp. CS cũng đã trơ trẽn mượn y chang cái vỏ cao cả, cái nguyên tắc cơ bản nhất của chế độ dân chủ cộng hòa (CS đã có lần tự gọi mình tên nước Việt Nam là “Việt Nam Dân Chủ Công Hòa!”) là “vì dân, do dân và của dân” căn cứ trên “dân sinh, dân chủ và dân quyền” để viết ra hiến pháp CS Việt Nam – rồi dùng nó để làm bình phong “hấp diêm” dân tộc, từ thế hệ cha mẹ đến con cái đến cháu chắt, để “tiến từng bước” lên cái gọi là thiên đường “Chủ ĩa Xã hội…”<br /><br />Thử đọc lại và so sánh hiến pháp của một nước dân chủ tây phương (Hoa kỳ chẳng hạn) - một quốc gia được thế giới công nhận là dân thực sự làm chủ vận mạng của họ - và Hiến pháp của CSVN. Có cái dân quyền nào có trong hiến pháp Hoa Kỳ mà không có trong hiến pháp CSVN hay không? Nhưng thực tế, vấn đề thi hành những gì quốc hội do đại diện của dân (quốc hội?) đã viết ra, đã soạn thảo ra có phải như vậy hay không? Người dân dưới chế độ CS đã mỉa mai là “nói vậy mà không phải vậy!” Đâu cần phải có bằng tiến sĩ từ đại học kinh tế Hà nội hay học viện Mác-Lê mới biết sự khác biệt “nói một đàng làm một nẻo” này! Sự lường gạt đã được tự phơi bày từ trên đỉnh cao, để mọi người dân cùng nhìn thấy mà tức muốn hộc máu mồm. Bây giờ biết phải kêu oan với ai cho tỏ…<br />Dân chúng duới chế độ CS phải làm cái gì CS muốn thì CS mới ban phát cho sự sống (CS mới phát tem, gạo… cho). Không phải ai cũng có cơ hội thăng tiến dưới chế độ CS. Không phải ai cũng có thể thóat ra khỏi cảnh nghèo túng, ngọai trừ một thiểu số được xem như “có quyền công dân” hơn những “công dân” khác.<br /><br />Nên biết Karl Marx và Engels chỉ là tư tưởng gia (philosophers) không phải (và chưa bao giờ) là lãnh tụ chính trị; ngòai ra chính bản thân họ cũng chưa bao giờ phải sống dưới chế độ CS. Cám ơn thượng đế là CS đang từ từ đi vào lịch sử (và chắc chắn sẽ không bao giờ có cơ hội trở lại trong lịch sử nhân lọai).<br /><br />Cái nghịch lý là giới nghèo đói bần nông, còn được CS gọi là thành đồng của cách mạng, lại chính là thành phần phải chịu đựng đau khổ, bị bỏ rơi nhiều nhất dưới chế độ CS. Bây giờ “chính nghĩa” của CS đang từ từ sụp đổ; nhưng sự sụp đổ của CS cũng lại không giúp gì đến giai cấp bần cố nông đã bị CS lợi dụng. Thêm một lần nữa, dân đen lại bị bỏ rơi – “người chết hai lần” đúng như nhạc nô Trịnh Công Sơn đã mô tả họ! Chỉ có giới trí thức, giới có ăn học (trung nông, tiểu tư sản) mới biết tìm cách hưởng lợi trên sự sụp đổ của CS mà thôi.<br /><br />Từ những ngày đầu tiên nguyên thủy, CS được biết đến là “Bolsheviks.” Thật ra vấn đề không phải là tên gọi mà là “ý thức hệ.” Về khía cạnh chính sách xã hội, không có sự khác biệt lớn lao nào giữa CS, Phát-xít, Quốc xã, Leninist, Stalinist hay Maoist… Chỉ khác nhau ở tên gọi. Đôi khi họ còn tự gán cho họ những cái hoa mỹ như phong trào (mặt trận) ái quốc, cách mạng, cộng sản, công sản (không có dấu nặng), chống đế quốc, chống độc tài, chống phong kiến… (phe đối nghịch gọi họ là độc quyền tòan tri, cộng sản chuyên chế…) Qua “Communist manifacto” và “Das Kapital,” Karl Marx đã tiên đóan 2 điều và thuyết phục mọi người tin tưởng là:<br />- Tư bản, cũng giống như các hệ thống kinh tế xã hội cũ (phong kiến, thực dân) tự tạo ra các phản lực (internal tensions) và sẽ tự tiêu diệt (self-destruction)…. lừa phỉnh<br /><br />- Tư bản sau đó sẽ bị cộng sản thay thế qua một giai đọan chuyển thể (transitional period) là đấu tranh giai cấp; cuối cùng đi đến sự tòan thắng của cái gọi là “cách mạng vô sản.”…. lừa phỉnh<br /><br />Cả hai tiên đóan lừa phỉnh đó đều sai bét. Thứ nhất rõ rệt là tư bản không hề bị tiêu diệt; và thứ hai, cái gọi là cách mạng vô sản mặc dù thành công tại một vài nơi cũng sống không dai; đang phải tự “đổi mới;” nếu không “đổi mới” kịp thời (nói nôm na là đi trở lại con đường kinh tế tư bản) thì sẽ bị te tua một sớm một chiều (cứ xem Liên sô và các nước CS Đông âu).<br /><br />Có ai thấy CS đưa ra được một chính sách kinh tế khả dĩ nào để duy trì sự phát triển đới sống của dân chúng? Hoàn tòan sổ tọet. Không phát triển đuợc thì chớ, CS còn trì kéo sự tiến hóa của dân tộc qua chính sách kinh tế tập trung, hệ thống lãnh đạo rất kỳ quặc đầy rẫy tham nhũng; lãnh đạo thiếu khả năng; và thiếu tư cách. Khả năng và tư cách của họ (lãnh đạo CS) đang bị dân chúng sống dưới chế độ CS công khai ngờ vực?<br /><br />Trung quốc là trong những chế độ CS sớm thay đổi – thật là buồn cười cho các trò hề chính trị - Đổi từ chính sách kinh tế chỉ huy cứng ngắc của CS đến kinh tế thị trường (nên biết chỉ tư bản mới có thị trường; CS làm gì có thị trường!) Thay đổi đầu tiên của CS Trung quốc là công nhận quyền sở hữu của dân (tư sản – cũng lại là 1 yếu tố căn bản của tư bản). Danh từ “tư sản” trước đây đứng hàng đầu trong danh sách “phản động” dưới chế độ CS. Thực tế đã dần dần sáng tỏ là CS sẽ bị dẹp tiệm hoặc bởi ý dân (như đã thấy ít nhất 1 lần thử lửa dân chủ ở Thiên An môn) hoặc dần dà phải tự tan rã…<br /><br />Tư bản (quyền tự do kinh doanh và quyền tự do chính trị) không hẳn là lời giải tuyệt đối (như các thành phần bảo thủ / cực đoan hữu khuynh vẩn giải thích) cho các trật tự và an sinh của đời sống. Các biến chuyển suy thoái, sa lầy kinh tế gần đây cho thấy sự can thiệp của chính phủ (vào các sinh họat kinh tế) đôi khi rất cần thiết để cứu vãn thị trường.<br /><br />Nhìn chung, chính quyền XHCN cũng giống như ban quản trị của 1 công ty sắp phá sản. Quốc gia (công ty) bị phá sản vì quản trị (lãnh đạo) tồi chứ không nhất thiết chỉ vì vấn đề ý thức hệ trật hướng!<br /><br />Sự sụp đổ của CS không chỉ vì kinh tế tồi tệ (là một đặc sản tự nhiên) của XHCN; nhưng vấn đề nhân quyền và sự tàn bạo mới làm cho CS sớm mai một. CS kêu gọi giới công nông (công nhân nhà máy và bần cố nông vô sản) dùng võ lực để lật đổ tư bản. Điển hình thấy từ Liên sô, dân nghèo đã hy sinh xương máu để lật đổ Nga hòang và giai cấp tiểu tư sản… Ngay sau đó, đám cầm đầu cách mạng “vô sản” tự biến họ ngay tức thì thành “tiểu tư sản:” làm chủ tất cả các của cải đã chiếm đọat được. Dân nghèo chỉ được dùng và bị bỏ rơi sau khi cách mạng không cần đến họ nữa! Đám “đồng chí lãnh đạo” giả nhân giả nghĩa trở thành các “ông chủ mới” của giai cấp công nông vô sản. Đám người bịp bợm này kết hợp với nhau thành “Đảng CS” để bảo vệ quyền lợi “chủ nhân ông” của họ. Chỉ có đảng viên mới có cơ hội ăn trên ngồi trốc. Dân đen vẫn hòan dân đen, vẫn nghèo và vẫn tuyệt vọng. Chủ nghĩa CS đã sỉ nhục sự thông minh của nhân lọai. <br /><br />Một số câu hỏi đã có sẵn câu trả lời:<br /><br />- Tại sao CS phải chủ trương bạo động, khủng bố và gây sợ hãi? Bởi vì người hiểu biết một chút không ngửi được cái biện chứng duy vật và lý lẽ một chiều của họ. <br /><br />- Tại sao dân chúng có thể theo một đám thổ phỉ CS thất học để hủy họai truyền thống văn hóa của dân tộc, giết các người có công gầy dựng đất nước cho mục đích của tập đòan CS? Bởi vì đám đa số dân nghèo bị CS tuyên truyền gạt gẫm là CS sẽ dẫn họ đi đến thiên đường (bánh vẽ) CS - CS sẽ lấy của cải của người giầu chia đều cho người nghèo (!) <br /><br />- Có phải Bộ Chính Trị Trung Ương của đảng CS là do dân chúng lập ra hay không? Bộ chính trị trung ương CS đâu có phải là chỗ đầu phiếu phổ thông. Bộ chính trị trung ương CS đâu có phải là chỗ dành cho bất cứ ai có tài lãnh đạo muốn vào cũng được. Thực tế đã rõ như ban ngày. <br /><br />- Tại sao lãnh tụ CS cứ ở mãi vị trí lãnh đạo và rồi cha truyền con nối như thời phong kiến? Có phải họ muốn bảo thế giới là chỉ có họ (và con cháu họ) là những người duy nhất có đủ tài và trí để cai tri dân (!) <br /><br />- Tại sao CS luôn luôn sợ các phong trào dân chủ đòi quyền chính trị; đặc biệt là tự do báo chí, ngôn luận, bầu cử, di chuyển và trọng nhân phẩm? Có phải CS cho là dân còn mông muội không hiểu ý nghĩa của tự do là gì? Công an (không phải dân!) mới là người mà CS tin cậy. CS mà không có công an thì cũng như thịt chó mà thiếu mắm tôm. <br /><br />Biết bao nhiêu câu hỏi đã có câu trả lời rồi mà CS vẫn bám trụ chỉ vì quỵền lợi kiếm được quá dễ dàng, không cần tốn sức lao động và mồ hôi.<br /><br />Dân đen (vì quá đói khổ) đã dễ quên cái tẩy của CS – chỉ có nhà nước mới có khả năng bảo vệ và quyết định tương lai của dân chúng. CS chỉ có thể tồn tại dưới một chế độ tòan trị, độc đảng chơi ngang không kể gì luật pháp. Trong khi trong chế độ dân chủ, nhà nước không “trị” mà chỉ đóng vai trò hướng dẫn và làm trọng tài trong sân chơi chính trị mà thôi…<br /><br />CS với bất cứ tên gọi “ít-ít” gì (Bôn-sơ-vít, Mác-xít, Lê- nin-nít, Sì-ta-lin-nít, Mao-ít, Trốt-kít, dốt-đít……) đề là giống y như nhau ở đặc tính khát máu sát nhân (tòan là giết người đồng chủng mới căm!) một cách vô lương tâm dưới nhiều cách khác nhau: giết chết ngay lập tức (qua thanh trừng, cắt tiết, xử tử, ám sát, giết tập thể…); giết chết từ từ (qua trại cải tạo, cưỡng bách lao động, cưỡng bách di dân – đi “vùng kinh tế mới”…) Theo các tài liệu quốc tế ghi chép lại thì CS đã giết đến gần 110 triệu (gấp gần 200 lần số dân vô tội bị Hitler tiêu diệt trong Thế chiến thứ II). Đứng đầu danh sách sát nhân này là Lenin và Stalin của Liên sô (giết khỏang 43 triệu); thứ nhì là Mao trạch đông của Trung Cộng (giết khỏang 30 triệu), sau đó là Pol Pot của Cao miên, HCM của Viêt Nam, Tito của Nam tư, Kim nhật thành của Bắc hàn…. Đó là chưa kế gần 50 triệu người chết một cách gián tiếp vì đói và bệnh tật dưới chế độ cai trị kỳ quặc của CS. Trong lịch sử nhân lọai chưa có một chiến tranh lớn nào, chưa có một chính thể tàn bạo nào, chưa có ý thức hệ quái đản nào mà phải giết nhiều người (đồng chủng) như vậy… TT Reagan của Hoa Kỳ đã có lần gọi Liên sô (và CS nói chung) là “Evil Empire” cũng không có gì là quá đáng. Ngày nay CS vẫn là “evil” nhưng ít nhất CS Liên sô đã ta rã và chỉ còn trong sử liệu mà thôi.<br /><br />Tư bản là một hệ thống kinh tế mà mọi người dân có cơ hội vươn lên bằng sự cố gắng của chính mình (chứ không phải vì lý lịch). TT Clinton và TT Obama là những thí dụ điển hình. Hoa kỳ là nơi mà dân nghèo khố rách áo ôm, không một xu dính túi từ tứ xứ đến (Âu châu, Á châu, Phi châu…) đã trở thành giầu có sung túc nhờ nỗ lực làm việc của chính họ chứ không phải vì phép lạ; hay vì chính phủ Mỹ đã bảo họ phải làm cái gì để chính phủ phát cho họ miếng ăn sống qua ngày. Công ty Microsoft đã tạo ra biết bao nhiêu là tỷ phú mà họ là những người có tài sáng tạo, có khả năng làm ra và bán chương trình cho máy vi tính; chứ không phải vì họ có bố mẹ giầu có hay là đảng viên của đảng chính trị cầm quyền…<br /><br /><br />Dưới chế độ CS, đảng viên và cán bộ nắm tất cả quyền lực và cơ hội kinh tế. Hy vọng duy nhất cho người dân dưới chế độ CS được vươn lên khỏi kiếp nghèo khó là trở thành một đảng viên CS!!! Sự thăng tiến xã hội cho con người không phải vì sản xuất giỏi, vì tài giỏi; mà vì nhận được nhiều tiền hối lộ, là vì đã nắm chức vụ cao…<br /><br />Cái khôi hài nhất của chế độ CS là đảng viên và cán bộ mỗi ngày mỗi giầu có hơn; nhưng họ đổ tất cả các lỗi lầm, những thất bại kinh tế, những tệ đoan xã hội cho những”thế lực thù địch” (tưởng tượng) đã gây ra; hoặc “tàn dư” (tưởng tượng) của tư bản để lại!!!…<br /><br />Chưa có một nước CS chân chính nào thành công trong việc tạo ra một nền kinh tế thịnh vượng mà mọi tầng lớp dân chúng được huởng. CS luôn luôn cần một bộ máy tuyên truyền nói láo thật qui mô và hàng trăm tờ “báo lố” (nói lái) và một chính phủ độc tài sắt máu để tồn tại. Sự kiên nhẫn, sự rộng lượng tha thứ của dân chúng đã sắp đi đến cuối con đường. Người dân sống dưới chế độ CS bây giở cũng y như những con cọp bị ngược đãi và bị cưỡi đã hơi lâu rồi. Những tên “nài” CS cưỡi cọp có lẽ sẽ phải trả một giá rất đắt như bài học của Sô-sét-cu (Trùm CS Nicolae Ceausescu, Chủ tịch nhà nước của Romania từ năm 1965, bị dân chúng nổi lên bắt treo cổ năm 1989). Các trùm CSVN không khéo rồi cũng chung số phận với sô-sét-cu thôi. Chờ xem.<br /><br />Trần Văn Giang<br /><br /><br /><br /><br /><br /><br /><br />Lồn phải” nổi giận<br /><br /><br />Từ bao nhiêu năm qua, Lê Khả Phiêu, cựu tổng bí thư của đảng CSVN, không ngừng hô to khẩu hiệu chống tham nhũng tới cùng. Thế nhưng, tư gia của Lê Khả Phiêu lại là một biệt thự vô cùng nguy nga tráng lệ. Ngội biệt thư đắt tiền kia chất chứa hai đặc điểm. Một là phòng nào trong nhà của Lê Khả Phiêu cũng chểm chệ tượng đá hoặc hình vẽ chân dung của Lê Khả Phiêu. Quả thực, Lê Khả Phiêu đang thờ Lê Khả Phiêu. Hai là, một trống đồng Đông Sơn , hiên ngang nằm giữa phòng khách. Nó là loại trống cỗ, thuộc hàng báu vật của quốc gia. Trống đồng Đông Sơn đã được Lê Khả Phiêu giải phóng ra khỏi bảo tàng viện quốc gia để nhập vào gia tài riêng của Lê Khả Phiêu. Tin tức về tư gia của Lê Khả Phiêu là loại tin tức CSVN cần bưng bít.<br /><br />Nếu Lê Khả Phiêu đúc tượng để tự thờ thì Nguyễn Tấn Dũng thủ tướng CSVN lại tự thờ bằng cách cho tay chân xây dựng cả một nhà thờ dòng họ Nguyễn Tấn trên đường Nguyễn Trung Trực, thị xã Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang. Nhà thờ “Ba Dũng” vừa khánh thành đầu tháng 12/2008. Nhà thờ này xây cất trong hai năm, tri giá 40 tỉ đồng Việt Nam.<br /><br />Nó nguy nga hơn đền thờ Anh Hùng Nguyễn Trung Trực nhiều lần. Nhà thờ Nguyễn Tấn Dũng chỉ là một phần rất nhỏ trong khối tài sản khổng lồ của Nguyễn Tấn Dũng. Phải chăng tại Việt Nam, quan chức CSVN càng chống tham nhũng, càng giàu to? CSVN cho rằng: Câu hỏi vừa nêu hiển nhiên là câu hỏi vi phạm bí mật của quốc gia. <br /><br />Tin về tư gia của Lê Khả Phiêu và về nhà thờ họ của Nguyễn Tấn Dũng là nhưng tin tức cần bưng bít. Đối với tin không thể bưng bít CSVN quyết tâm nói trái với sự thực hoặc bóp méo sự thực. Ngày 02/01/2009 trên ViệtNamNet, Vũ Dũng, thứ trưởng ngoại giao của CSVN không ngần ngại xác định: “Theo lịch sử, thác Bản Giốc và ải Nam Quan là của Trung Quốc”. Câu nói của Vũ Dũng vừa xuyên tạc lịch sử, vừa để lộ tội ác mãi quốc cầu vinh của đảng CSVN.<br /><br />Lê Khả Phiêu, Nguyễn Tấn Dũng, Vũ Dũng chỉ là ba trong vô số trường hợp tương tự biểu tỏ rằng: chế độ độc tài Hà Nội tồn tại nhờ vào hàng loạt tội ác truyền thông: bưng bít tin tức, xuyên tạc tin tức, nhắm mắt thần thánh hóa lãnh tụ, kể cả lãnh tụ mang nguyên một núi tội phạm tình dục kiểu Hồ Chí Minh. Muốn cho những tội ác truyền thông kia thực sự lòe bịp được xã hội, CSVN phải huy động toàn bộ hệ thống truyền thông quốc doanh trên dưới 700 cơ quan để cùng nhau nói dối, cùng nhau vo tròn bóp méo sự thật. Truyền thông theo kiểu cờ gian bạc lận kia được ông Lê Doãn Hợp bộ trưởng bộ truyền thông CSVN long trọng gọi là truyền thông di chuyển bên lồon phải. Không chấp nhận lồon phải tức là phạm pháp, tức là chấp nhận gông cùm.<br /><br />Làm người ai cũng có lương tâm. Làm người ai cũng có lòng tự trọng. Lương tâm và lòng tự trong đã khiến con người cảm thấy xấu hổ khi phải sống cuộc đời gian manh trên lồn phải của Lê Doãn Hợp. Tình cảm xấu hổ vừa nêu lâu ngày biến thái thành hành động nổi giận. Sau đây là một tình huống nổi giân vô cùng đáng quan tâm của lồn phải:<br /><br />Ngày 29/01/2009, trên báo Người Việt, tác giả Phan Việt Đăng đã viết một bài phóng sự rất hấp dẫn. Tác giả Phan Việt Đăng cho biết: nhân dịp Tết Nguyên Đán 2009, tổng cục Du lịch thuộc bộ Văn Hóa-Thể Thao-Du Lịch của CSVN đã trình làng một giai phẩm gọi là giai phẩm Xuân Du Lich. Báo Du Lịch là thành viên chính thức của lồn phải. Người phụ trách xuất bản là Phó Tổng Biên Tập Nguyễn Trung Dân và Tổng Thư Ký Trần Văn Tiến. Điều đặc biệt là tờ Du Lịch đã chiêu tập những cây bút có tên trong sổ đen của CSVN : Bùi Minh Quốc, Nguyên Ngọc, Nguyễn Quang A,… Đặc biệt hơn nữa Giai Phẩm Xuân Du Lịch, thay vì tập trung vào nội dung vui xuân như mọi báo xuân quốc doanh ở trong nước, đã bất ngờ nêu bật ý chí chống “thù trong, giặc ngoài”. Đây là loại đề tài tối ư khắc kỵ đối với đảng CSVN và đối với đoàn quân di chuyển một chiều trên lồn phải. Vì vậy, sự xuất hiện của Giai Phẩm Xuân Du Lịch cộng với thái độ tiếp đón nồng nhiệt của quần chúng độc giả rõ ràng là một nổi giận ly kỳ của lồn phải. Ly kỳ bởi lẽ một thành viên của lề phải lại nổi giận ngay trên lồề phải, chống lại ông chủ của lồn phải. Ly kỳ còn bởi lẽ: Chế độ Hà Nội có lẽ do mãi mê tham nhũng đã không tiên liệu được cuộc nổi loạn truyền thông do Giai Phẩm Xuân Du Lịch phát động. Nội dung chống thù trong giặc ngoài nằm rãi rác trên nhiều bài viết khác nhau trong Xuân Du Lịch. Bài viết này xin chọn ra hai sáng tác phẩm tiêu biểu để làm trọng tâm cho việc phân tích và đánh giá ý chí chống thù trong giặc ngoài:<br /><br />1. Chống giặc ngoài: <br /><br />Lịch sử nghìn đời của Việt Nam đã ghi đậm chân lý rằng Trung Quốc là kẻ thù xâm lược truyền kiếp của Việt Nam. Ngày nay tham vọng xâm lược kia càng lúc càng trở nên gay gắt và tinh vi. Xâm lược tinh vi tức là vừa đánh vừa xoa. Trung Quốc xoa CSVN bằng cách luôn miệng đề cao ngoại giao 16 chữ vàng, bằng cách mua chuộc giới lãnh đạo CSVN thông qua những quyền lợi kinh tế tài chánh, thông qua mỹ nhân kế và những cam kết bảo vệ quyền thống tri của CSVN trên đất nước Việt Nam. Trung Quốc đánh Việt Nam bằng cách cướp đất, cướp biển, sát hại ngư dân…CSVN chỉ biết nhắm mắt hưởng những gì Trung Quốc ban phát và tảng lờ đi những gì Trung Quốc đã gây nguy hại cho tổ quốc Việt Nam. Giai Phẩm Xuân Du Lịch đã mang tác phẩm “Hận Nam Quan” của nhà thơ Hoàng Cầm vào báo Xuân vừa như một phản kháng gay gắt đối với tội ác phản quốc của CSVN, vừa như lời cảnh tỉnh rằng Trung Quốc không bao giờ từ bỏ giả tâm xâm lăng Việt Nam và rằng nghĩa vụ đối với tổ quốc đòi hỏi mọi người Việt Nam phải giữ vửng quyết tâm chống bành trướng Bắc Triều. Lời giả biệt của Nguyễn Phi Khanh nói với Nguyễn Trãi chính là lời hiệu triệu của Tổ Tiên Việt Nam gửi cho muôn dân Lạc Hồng:<br /><br />“Về ngay đi, rồi chí nguyện công thành,<br />Nghĩ đến Cha, một phương trời ảm đạm<br />Chỉ nghiến răng, vung kiếm chém quân thù<br />Trãi, Con ơi, tương lai đầy sáng lạn!”<br />(Hận Nam Quan – Hoàng Cầm)<br /><br />2. Chống thù trong<br /><br />Thù trong là những kẻ tiếp tay với giặc ngoài. CSVN tiếp tay với Trung Quốc bằng cách đánh đập, bắt bớ giam cầm những người Việt yêu nước biểu tình chống Trung Quốc vào cuối năm 2007. Giai Phẩm Xuân Du Lịch đã trân trọng vinh danh những nam, nữ anh hùng chống Tàu dưới hình thức đăng tải bài viết “Tản Mạn Cho Đảo Xa” của tác giả Trung Bảo. Tính chất độc đáo của bài viết này nằm ở chỗ thay vì diễn tả lòng yêu nước, yêu đồng bào chống Trung Quốc bằng ngôn ngữ bình thường, Trung Bảo đã diễn tả thái độ trang trọng của Trung Bảo khi tác giả nhặt được tờ truyền đơn chống Tàu do một đồng bào Việt Nam nào đó bỏ lại trên lề đường đối diện với lãnh sự quán Trung Quốc tại Saigon. Trung Bảo Viết:<br /><br />“Một năm sau, tờ giấy khổ A4 với dòng chữ vi tính: “Hoàng Sa-Trường Sa thân yêu là của Việt Nam” cùng vài chữ viết tay nguệch ngoạc: “09/12 ngày lịch sử” giờ đây đã ngã màu. Tờ giấy này của một bạn trẻ nào đó, tôi nhặt được trên lề đường Nguyễn Thị Minh Khai, đối diện với lãnh sự quán Trung Quốc trong những ngày đẹp trời cuối năm 2007. Tôi đem nó về dán lên tường nhà mình như một kỷ niệm đẹp. Cái ngày 09/12/2007 có lẽ chẳng bao giờ khiến tôi quên được. Quên sao được cái không khí bừng bừng khí thế. Quên sao được khi tình cờ tôi được đứng lẩn vào cùng những người đã tạo nên những ngày lịch sử.”<br /><br />Thế nhưng, những đồng bào yêu nước mà Trung Bảo tôn kính lại bị đảng CSVN gọi là “kẻ xấu”. Xấu chỉ vì không cùng với CSVN vòng tay cúi đầu trước Trung Quốc. Chứng Kiến tình huống nghịch lý đến điên đảo kia, Trung Bảo bực dọc lý luận:<br /><br />“Nếu có “kẻ xấu” nào đó “kích động” người ta đi biểu tình vì yêu nước, ta nên tôn trọng những kẻ xấu này. Ngược lại khi “người tốt” tìm cách ngăn cản sự biểu lộ đầy phẩn uất một cách cách chính đáng của người dân vì chứng kiến đất Mẹ bị xâm phạm thì hẳn những kẻ vẫn mạo xưng “người tốt” này cần phải được xem lại”<br /><br />Do bi kèm kẹp bởi công an truyền thông Trung Bảo không tiện viết thành bạch văn ý nghĩa của nhóm chữ “cần phải được xem lại”. Xem lại ở đây là sự xác định rằng quả thực đảng viên CSVN là những người tốt, nhưng chỉ tốt đối với Trung Quốc. Muốn được Trung Quốc chấm điểm là người tốt, đảng viên CSVN cần hội đủ hai điều kiện: Một là ngoài việc tham ô nhũng lạm, đương sự không bận tâm tới bất kỳ công việc nào khác. Hai là các vấn đề quốc nội, quốc tế của Việt Nam, đặc biệt vấn đề bảo vệ lãnh thổ, lãnh hải phải tuyệt đối hành động đúng theo mệnh lệnh của Trung Quốc. Mỗi quan chức CSVN chỉ là một quan thái thú, không hơn, không kém.<br /><br />Suy nghĩ về sự việc “Hận Nam Quan” của Hoàng Cầm và “Tản Mạn Cho Đảo Xa” của Trung Bảo xuất hiện trên Giai Phẩm Xuân Du Lịch, người đọc nhận ra ngay rằng: Hình thái nổi giận của Xuân Du Lịch tuy có phần bình tĩnh nhưng vô cùng sâu sắc và dứt khoát. Bài viết này xin được kết thúc bằng hai phát biểu dành cho Xuân Du Lịch và cho chế độ Hà Nội.<br /><br />Thứ nhất: Lời tri ân kính gửi đến Nhóm Chủ Biên Xuân Du Lịch.<br /><br />Hơn ai hết Quí Vị là những người thừa biết những hậu quả khốc liệt mà Quí Vị phải hứng chịu sau khi Giai Phẩm Xuân Du Lịch ra đời. Biết vậy nhưng vẫn hành động. Quí vị là những người đã bình tĩnh tìm đến cái chết để cho Tổ Quốc được trường tồn. Phát âm hai chữ yêu nước, không khó. Dùng chính xương máu của mình để diễn tả lòng yêu nước mới là điều cực kỳ khó khăn. Quí vị thực hiện điều cực kỳ khó khăn kia đơn giản như hơi thở. Quí vị hành động chỉ vì lòng yêu nước, không vì ước muốn trở thành bậc anh hùng. Vì vậy viết lời ca tụng kính gửi đến quí vị chẳng khác nào làm một bài luận văn lạc đề. Tuy nhiên bài viết này vẫn chân thành gửi đến quí vị những lời vinh danh trân trọng nhất. Vinh danh đồng nghĩa với học hành gương sáng. Vinh danh đồng nghĩa với công việc ghi khắc phương danh của quí vị vào tim óc của mỗi người Việt Nam bằng tất cả tấm lòng ngưỡng vọng và mến yêu.<br /><br />Thứ hai: Nói với đảng CSVN.<br /><br />Những gì được viết trong phần tri ân Giai Phẩm Xuân Du Lịch là phương cách diễn đạt gián tiếp nhưng mạnh mẽ rằng: tình huống nổi giận của Xuân Du Lịch không hề là một phản ứng bốc đồng, một ngọn lửa rơm. Xuân Du Lịch vừa là hình ảnh của một ly nước đã tràn đầy, vừa là tiếng nói nghiêm khắc của qui luật lịch sử. Qui luật rằng ở đâu có đàn áp ở đó có đấu tranh, và rằng lịch sử loài người đã khẳng định: chưa hề có chế độ độc tài nào nhờ vào gian ác đã trốn thoát được quả đấm phẩn nộ của bạo lực quần chúng. Lịch sử không biết khuyên lơn. Lịch sử chỉ biết đào thải. Đào thái êm ả hay đào thải thảm khốc. Nhân nhịp đầu năm Con Trâu bài viết này cầu chúc cho đảng CSVN một năm mới thân với dân như con trâu thân với bác nông dân. Theo lệnh của bác nông dân con trâu CSVN hãy ngoan ngoản chấp nhận con đường đào thải êm ả của lịch sử./.. <br /><br />Đỗ Thái Nhiên<br /><br /><br /><br /><br /><br /><br /><br />Cộng Sản Việt Nam và những cuộc đầu độc<br /><br />Đầu độc theo nghĩa đen là bí mật cho thuốc độc vào đồ ăn, đồ uống, không khí… Nhằm làm tê liệt hoặc giết chết vật chủ với một ý đồ xấu… Đầu độc theo nghĩa bóng là hành vi làm cho nhiễm phải tư tưởng phản nhân, nhiễm phải văn hoá đồi bại, qua đó mà tiêu diệt nhân cách, dần đần tiêu diệt cả thể xác con người, cả nhóm người, thậm chí là cả một dân tộc.<br /><br />Theo cả hai nghĩa thì hành vi đầu độc luôn là lỗi cố ý, nó luôn được kẻ thủ ác thực hiện cách lén lút bí mật. Phương tiện mà kẻ thủ ác dùng luôn là thứ độc hại, dễ cất dấu, dễ che dấu. Vật chủ bị hại có thể chết ngay, có thể chết từ từ, nhưng vì không nhận ra, nên gần như không có hành động kháng cự. Ngay cả khi lờ mờ nhận ra, hoặc đã nhận ra, thì cũng khó có biện pháp chống đỡ, khó có bằng chứng tố cáo… Kể cả việc bắt được tận tay, thì kẻ thủ ác vẫn có thể biện minh rằng nó vô ý, không biết tính độc hại - Tội sẽ nhẹ hơn nhiều. Vì thế những kẻ tàn ác nhất luôn triệt để sử dụng phương pháp đánh thuốc độc này. Xã hội văn minh thì luôn giành cho nó sự khinh bỉ cũng như việc trừng trị nghiêm khắc… Với điều kiện nạn nhân phải tố cáo trên cơ sở chứng cứ…<br /><br />1) Vô sản lưu manh rước chủ thuyết cộng sản về đầu độc dân tộc Việt Nam có phải do chọn nhầm chân lý?<br /><br />Lịch sử Đảng Cộng sản Việt nam được những người cộng sản viết lên từ trước 1930. Nhưng phải đến khi ông Hồ Chí Minh thoán đoạt ngôi vị chủ tịch đảng, lúc đó đảng cộng sản việt nam mới phát tác những gì là tàn độc nhất, vô luân nhất của cái học thuyết ngụy nhân bản và phi lý nhất trong lịch sử nhân loại.<br /><br />Đến hôm nay, không còn ai nghi ngờ nữa. Tự học thuyết cộng sản với bao nhiêu tài lực, vật lực, “trí lực” cũng không đứng vững. Nó đã sụp đổ ngay trong lòng đảng viên cộng sản. Những kẻ thủ ác, chuyên đi đầu độc cũng nhiễm bệnh, từ thủ phạm chúng tự biến mình thành nạn nhân của chính cái học thuyết mà chúng rước về… Thế là rõ ràng! Chủ thuyết cộng sản là một thứ độc dược giết chết hàng trăm triệu người, làm tàn phế nhân cách hàng trăm triệu kẻ khác…<br /><br />Khởi đầu – 1945, khi tình hình quốc tế rất rối ren bởi chiến tranh trùm lên chiến tranh. Dân tộc Việt nam trong cảnh nô lệ mấy tầng nô lệ. Phương Tây vừa chiến thắng chủ nghĩa phát xít, nước Việt đau thương lúc đó gần như bị bỏ ngỏ. Lực lượng quốc gia không hề được nâng đỡ bởi bất cứ tài lực gì của thế giới văn minh. Trong khi đó những người cộng sản với chiêu bài người cày có ruộng, cướp của kẻ giầu chia cho người nghèo, lại được hỗ trợ nhân lực, vật lực, tài lực từ quốc tế cộng sản… đã tập hợp được lực lượng. Và không chỉ tập hợp lực lưọng, người cộng sản còn lừa để cưỡng chiếm quần chúng từ tay lực lượng quốc gia, với chiêu bài thành lập mặt trận yêu nước chung, mời thủ lãnh lực lượng quốc gia đưa quần chúng về tham gia, rồi hạ bệ, ám sát thủ lãnh của người quốc gia để cướp lấy quần chúng…<br /><br />Khởi điểm của việc đưa chủ nghĩa cộng sản về Việt Nam của những kẻ vô sản không liên quan gì đến chân lý… Vì với năng lực cũng như xuất phát điểm của nó, nó không biết và không quan tâm đến chân lý… Mà chỉ đơn thuần là việc chúng sẽ được quốc tế cộng sản lựa chọn đặt lên làm tay sai, làm thừa sai trên mảnh đất Việt Nam thậm chí trong khu vực… Như thế từ những kẻ vô sản, thất học, du thủ du thực bỗng chốc trở thành kẻ có quyền lực…<br /><br />2) Đầu độc hệ tư tưởng, làm mất lương tâm, liệt nhân cách, liệt kháng, con người nếu không đồng phạm thì cũng không có khả năng chống đối cộng sản:<br /><br />Phương pháp thủ đoạn nào đã giúp cho người cộng sản có thể chiếm được quần chúng??? Có lẽ một người có kiến thức trung bình cũng có thể trả lời: Đó là những thủ đoạn lừa dối, lật lọng đê hèn cùng với bàn tay nhuốm máu được che dấu trong những bộ mặt giả nhân hơi một tí là có thể rơi nước mắt…<br /><br />Nhưng nếu chỉ thế thôi thì chưa đủ. Cái nền cho các thủ đoạn đê hèn kia thành công là người cộng sản đã đầu độc tư tưởng của cả một dân tộc. Đầu độc cả nghĩa bóng lẫn nghĩa đen. Lịch sử đã ghi nhận, nó sẵn sàng đầu độc cả đồng chí của nó trong tù để đổ tiếng ác cho chính quyền đương nhiệm, rồi kích động quần chúng mang xương máu mà đâng hiến cho nó…<br /><br />Nhưng đau thương nhất là người cộng sản đầu độc cả một dân tộc sinh ra nó bằng cách cam tâm làm nô lệ quốc tế cộng sản, rước cái học thuyết cộng sản vô luân về nô dịch tư duy con dân nước Việt. Một cái học thuyết phá sản ngay từ trong lập luận: Học thuyết này khẳng định mâu thuẫn giữa các mặt đối lập là nguồn gốc và động lực của sự phát triển – Nhưng lại hướng dẫn xây dựng nhà nước độc tài, chỉ duy nhất có đảng cộng sản. Như thế đương nhiên xã hội của họ mất động lực để phát triển. Không phát triển thì làm sao mà tồn tại??? Nó phi lý hiển nhiên như thế, mà Nguyễn Sinh Cung tức Hồ Chí Minh đọc còn chưa hết ý, đã rơi lệ mà nói to lên rằng “Hỡi đồng bào, cái cứu vớt dân tộc chúng ta đây rồi”. Như thế đủ biết năng lực và tư cách của tên việt gian Hồ chí Minh.<br /><br />Quốc tế cộng sản thì đầu độc nhân loại bằng học thuyết ngụy biện, ngụy chân lý, lấy giả làm thật, phủ nhận mọi giá trị hình thành suốt chiều dài lịch sử nhân loại… Tuyên truyền, làm lây nhiễm trên diện rộng tư tưởng, văn hoá đồi bại của nó, gây đau thương cho biết bao nhiêu quốc gia, dân tộc… Với nền dân chủ giả hiệu, với các giá trị vật chất có được do cưỡng đoạt, do vay mượn gian dối... Tay sai quốc tế cộng sản - cộng sản việt nam đầu độc dân tộc Việt bằng sự tuyên truyền, khoa trương cho cái học thuyết đó, rao giảng về “thiên đường thành trì CNXH” ở Liên Xô, ở đông Âu. Với quần chúng nhân dân nghèo khó, thiếu hiểu biết lúc đó đúng là một thiên đường… Ngủ qua một đêm họ được đeo băng đỏ, cầm súng trường… “Làm chủ” xã hội.<br /><br />Từ 1945 đến nay, chủ nghĩa cộng sản đã đầu độc dân tộc Việt Nam thế nào??? Cái chủ nghĩa quái đản kia len lỏi trong mọi lĩnh vực. Từ giáo dục, đến Y tế, hay trong các sinh hoạt cá nhân thường ngày... Thậm chí cả trong giáo lý của các tôn giáo. Tôn giáo từ xưa đến nay vẫn là lĩnh vực tâm linh, không có biên giới, trên mọi dân tộc, trên mọi học thuyết chính trị… Nhưng ở Việt Nam khẩu hiệu: đạo pháp, dân tộc, chủ nghĩa xã hội - được sư tay sai cộng sản giăng trước cổng chùa… Hay cộng sản gán vào mồm không ít giáo dân tu sĩ câu cửa miệng: Kính Chúa yêu nước – Trong khi giáo lý Công Giáo dậy phải thờ lậy Chúa; Chỉ có các Thánh, Ông bà Tổ tiên thì mới là kính… Người dân phải nói theo một mô thức do cộng sản đặt ra… Có cả một giai đoạn trước khi mở miệng nói bất cứ điều gì ngưòi ta cũng đều bắt đầu bằng: ơn đảng ơn chính phủ… Trẻ em từ học mẫu giáo được dạy “Ai yêu bác hồ chí minh hơn chúng em nhi đồng”…<br /><br />Sau 1975 cộng sản đầu độc tư tưởng trên toàn cõi Việt. Những trí thức dưới chế độ VNCH không khỏi kinh ngạc với những gì cộng sản nói ra mồm một cách ngô nghê… Những kẻ thất học, vừa trong rừng sâu đánh về thành phố, được gá lắp dăm câu ba điều trong học thuyết cộng sản, nói tiếng Việt còn chưa sõi, được phong hàm “giáo sư”, sáng trèo lên bục giảng cấp đại học, tối chui vào các lớp bổ túc văn hoá bậc phổ thông để “hoàn thiện kiến thức”… Nhưng chưa hẳn vì cộng sản hết người, mà vì cộng sản chỉ dùng những kẻ như vậy, để đảm bảo “tư tưởng” của nó được sao y bản chính. Để thuốc độc nó reo rắc không bị giảm đi về lượng cũng như về chất, nếu dùng những người có chút hiểu biết còn chút lương tâm…<br /><br />Hệ thống giáo dục, tuyển dụng nhân sự công quyền của cộng sản không ngần ngại hụych tọe ra rằng: Muốn lọt vào bộ máy nhà nước phải có những văn bằng do cộng sản cấp - Phải “hồng+chuyên”, dù đã có văn bằng ở nước ngoài vẫn phải “chuẩn hoá” lại, để hợp thức hoá hình thức… Thế là trí thức học ở nước ngoài được đưa vào các trường “Đại học” của cộng sản để tẩy não… Không chỉ thế, nó còn làm cho cả xã hội đi học tại chức… Có những người công việc đang đảm nhiệm là tài xế, là bảo vệ, là trông xe đạp xe máy… Cũng đi học tại chức Luật, thậm chí đi học tại chức lý luận chính trị… Cộng sản cũng khéo léo để một vài trường hợp thăng tiến được làm “gương”, làm mồi nhử… Như bộ trưởng nội vụ đương quyền - Trần Anh Tuấn – nguyên là một tay lái xe vô học thức. Khi làm lái xe tại thành uỷ Hà Nội vẫn chưa có nổi tấm bằng tốt nghiệp phổ thông theo tiêu chuẩn cộng sản, sau một hồi gá lắp hàm thụ chuyên tu, tại chức ban đêm… mà lên tới bộ trưởng… Thế là tư tưởng của nhiều thanh niên bị đầu độc bởi “giấc mộng đổi đời” bằng cách cập nhật hệ tư tưởng Mác-Lênin và Hồ chí minh… Họ tự “ăn thuốc độc” mà không hay biết… Tội nghiệp họ, cộng sản dù muốn cũng đâu có nhiều bộ đến thế mà phong bộ trưởng cho hàng triệu thanh niên???<br /><br />Trong xã hội cộng sản, người ta được rao giảng không cần bất cứ một ý kiến khác biệt nào, mọi thứ đều qui về lãng tụ cộng sản đỉnh cao trí tuệ biểu tượng đạo đức hy sinh cả đời sống gia đình để phục vụ nhân dân… người dân chỉ cần nghe, nói, làm theo những mô thức mà đảng cộng sản sẵn đưa ra… Con người như rơi vào trạng thái bị đánh thuốc, mất tỉnh táo, mất khả năng tư duy độc lập, mất phân tích phán đoán… Mất dần cảm giác, đến mất tri giác, đương nhiên mất khả năng điều khiển chính mình…<br /><br />Lúc đầu, cộng sản tuyên truyền về một xã hội “Thiên đường” ở đó người ta làm được đến đâu thì làm, nhưng muốn hưởng thụ đến đâu có sức cứ hưởng thụ. Trong chiến tranh cộng sản tuyên truyền về tình đồng chí, về tình giai cấp, về tinh thần quốc tế vô sản, về sự hy sinh vô danh cao cả… Cho một quốc gia sắp tiến đến “Thiên đường” đó. Nhưng khi hoà bình nó lại nói rằng: Chúng ta mới đi được những bước đầu tiên của giai đoạn đầu tiên, trên chặng đường đầu tiên của con đường CNXH là tại vì kẻ thù của chúng ta chống phá – Hãy tiếp tục hy sinh cho công cuộc xây dựng CNXH vì tương lai con em chúng ta… v v và v v … Có hàng triệu người bị “đánh thuốc” bị đầu độc, bị tê liệt cả ý trí lấn lý trí, cho nên những lập luận lừa bịp thô sơ và phi lý đó vẫn không bị công khai phản đối…<br /><br />Đến tận hôm nay, truyền hình bồi bút cộng sản còn công chiếu cả một thiên phóng sự về một “nhà sư” Khme miền tây nam bộ “tích hợp” giáo lý nhà Phật với tư tưởng Hồ chí minh, để thuyết pháp, dạy tăng… Rồi có cả một vị “sư” Khme mặt còn lông sữa giảng giải cho 85 triệu người dân Việt phải biết ơn “Phật sống” Hồ chí minh… Rõ ràng Việt gian cộng sản không bao giờ từ bỏ ý định đầu độc tư tưỏng, đầu độc công luận…<br /><br />3) Một xã hội suy đồi, hỗn loạn, người ta thản nhiên đầu độc nhau, người dân thì bất khả kháng cự - quan chức cộng sản thì có ranh giới riêng để bảo vệ:<br /><br />Hôm nay, cả một xã hội suy đồi và hỗn loạn. Bởi bị đầu độc mà ý thức tê liệt, hành vi bại liệt, nhân tính không còn, con người trở thành manh động, nguy hiểm cho chính mình và toàn xã hội… chỉ vì những câu nói hay những tranh chấp rất vạch vãnh người ta có thể giết nhau… Những người trong chiến tranh được cho là vào sinh ra tử vì nhau… Trong hoà bình lại có thể quay ngoắt 180 độ thành kẻ thù của nhau lập đủ mưu sâu kế độc để hạ nhau vì TIỀN….<br /><br />Tư bản bất lương nước ngoài vào đầu tư tại Việt Nam sau khi “nộp tô” cho các cá nhân quan chức cộng sản thì mặc sức đầu độc môi trường, gây hại trên diện rộng, đánh thẳng vào sức khoẻ, nòi giống Việt… Ngay cả khi bị bắt quả tang, tư bản nước ngoài vẫn bình chân như vại. Cộng sản sẽ “giải quyết êm xuôi” vì tiền - Vụ Vedan là một minh chứng.<br /><br />Đồ ăn vốn được mọi quốc gia coi rất trọng, vì nó trực tiếp đánh vào sức khoẻ, tính mạng con người… Thì ở Việt Nam cá, thịt được bảo bằng phân Urea. Bún, bánh phở… được bảo quản bằng phoocmon ướp xác người… Rau hoa quả… được bảo quản bằng các hoá chất mà dư lượng của nó làm con người sinh bệnh nan y… Thuốc chữa bệnh được cấp phép lưu hành theo số tiền về hối lộ chứ không phải tiêu chuẩn khoa học, y lý lâm sàng… Báo chí bồi bút cộng sản mà cũng phải la lên: “Chúng ta đang bị đầu độc”… Nhưng chỉ một hồi là mọi chuyện đâu hoàn đó. Rồi quan chức cộng sản nói cho dân biết những biện pháp rất hợp lý nhưng bất khả dụng: Hãy mua đồ tại những nơi tin tưởng - Phải biết tự bảo vệ mình…<br /><br />Điều đau đớn nhất là người dân biết, nhưng không có sự lựa chọn nào khác. Quan chức cộng sản thì miễn nhiễm vì chúng có hệ thống cung cấp phân phối riêng, chúng sinh hoạt tại những khu vực an toàn riêng. Bộ máy nhà nước, cơ quan duy nhất có khả năng ngăn chặn được tình trạng này thì được cộng sản dùng vào việc cướp bóc của dân, đán áp bịt miệng mọi tiếng nói trái ý, đối lập…<br /><br />Đau đớn hơn nữa là chính những người dân cùng cảnh nghèo khó nạn nhân cộng sản, lại không thương nhau, chính họ thản nhiên cho thuốc độc đầu độc đồng loại, đồng bào, đồng cảnh ngộ chỉ vì mấy chục USD… Tại sao như thế? Vì họ đã bị đánh thuốc liệt nhân cách, tư tưởng cộng sản lưu manh và biến thái khôn lường đã ghi đè lên tư duy nhân ái của dân tộc Việt trong tiềm thức họ…<br /><br />Và đau đớn trên mọi đau đớn là những kẻ thủ ác, khi nhận ra sai lầm, nhận ra tội ác, muốn sám hối nhưng đồng đảng của nó tìm mọi cách ngăn cản. Bản thân những kẻ này cũng hèn hạ không dám đoạn tuyệt với tội lỗi, sám hối thực tâm, để chân lý được sáng tỏ. Mà chúng ăn nói lòng vòng nghe ra có vẻ thống thiết, nhưng cuối cùng người ta nhận được kết luận rằng: Chúng đã làm hết sức mình mà không thể được… Nên chúng vô can. Than ôi ! Người dân thì không nhận ra dã tâm của kẻ “sám hối”. Nhiều trí thức cũng tán tụng sự “sám hối” này của kẻ thủ ác… Dân tộc Việt đau thương, vẫn chưa ra khỏi cơn mê vì bị đánh thuốc độc???<br /><br />Có ai về nước Việt cho tôi gửi câu này: Bị đầu độc - nếu không tự cứu mình thì chỉ là tự giết mình mà thôi!<br /><br />Lê SángVIET NAM QUE HUONG TOIhttp://www.blogger.com/profile/17768876020603625276noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-7636341192878165251.post-12879870836351730862009-01-29T04:47:00.000-08:002009-01-29T04:49:57.897-08:00Kho vu khi cua ca the gioi trut len dau nguoi Viet la nho cong cua Ho chi Minh ( phan 2)TRẬN CHIẾN KHE SANH TRONG NĂM 1968 <br /><br />Đêm 2 tháng 1/1968, gần hàng rào phòng thủ phía Tây Khe Sanh, một toán Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ đã phục kích và bắn hạ 5 cán bộ Cộng Sản. Giấy tờ tịch thu cho biết họ là những sĩ quan cao cấp Bắc Việt, trong đó có cả một người giữ chức trung đoàn trưởng. Còn hai người kia là cán bộ cao cấp về ngành truyền tin và hành quân. Tình báo Hoa Kỳ lo ngại một lực lượng hùng hậu của Bắc Việt đã có mặt tại vùng nàỵ Khi ấy, Trung Đoàn 26 TQLC tại Khe Sanh lập tức được lệnh phải bổ sung quân số. <br /><br />Đến ngày 20 tháng 1/1968, một trận đánh dữ dội đã xảy ra trên Đồi 881-Nam (Ghi Chú: Có hai ngọn đồi mang tên "881", một ngọn nằm về hướng Bắc của Khe Sanh, và ngọn kia nằm về hướng Nam. Xem bản đồ). Ngọn đồi này được phòng thủ bởi một cánh quân của Tiểu Đoàn 1/3 TQLC Hoa Kỳ, gồm Bộ Chỉ Huy của Đại Đội M, hai trung đội bảo vệ, và toàn thể lực lượng của Đại Đội K. Trong tài liệu Nam, Vietnam 1965-75, Đại Úy William H. Dabney (đại đội trưởng Đại Đội I) cho biết đại đội của ông chỉ huy có vài khẩu bích kích pháo 81 ly, 3 đại bác 105 ly, và hai súng không-giật 106 lỵ <br /><br />Lúc trời vừa sáng còn dầy đặc sương mù, một toán quân của Đại Đội I lục soát vòng quanh khu vực. Mọi vật trong không gian và thời gian đang lắng đọng yên lành. Nhưng đến trưa khi sương mù tan biến. Nét lặn yên của buổi sáng bị giao động giữ dộị Hai trung đội đi đầu lọt vào ổ phục kích của địch quân. Một rừng đạn đủ loại từ súng cá nhân cho đến vũ khí cộng đồng bay veo véọ Trong vòng chưa đến một phút mà đã có 20 binh sĩ Hoa Kỳ ngã gục. Những người còn lại nằm rạp xuống tránh đạn. Họ vừa bắn trả, vừa gọi máy truyền tin xin hỏa lực pháo binh tiếp cứụ <br /><br />Các căn cứ hỏa lực quanh vùng lập tức đáp lờị Những khẩu đại bác được quay nòng về hướng Đồi 881-Nam rồi ì ầm tác xạ. Một rừng đạn pháo bay đến cày nát chiến trường. Bom Napalm từ phi cơ không-yểm ném xuống cản được đợt xung phong của Cộng quân. Toán Cọp Biển bị thiệt hại nặng. Họ lui về vị trí cũ trên Đồi 881-Nam. <br /><br />Trong khi ấy, hai trung đội Thủy Quân Lục Chiến của Đại Đội M/3/26 (đọc là "Đại Đội M thuộc Tiểu Đoàn 3 của Trung Đoàn 26") được trực thăng vận đến Đồi 881-Nam. Toán quân này chuẩn bị hợp sức với Đại Đội I/3/26 để ngày hôm sau mở cuộc lục soát về hướng Đồi 881-Bắc. Theo tài liệu của Khe Sanh Veterans Home Page, cuộc hành quân này đưa đến một vụ đụng độ ác liệt dưới chân Đồi 881-Bắc. Lúc ấy, nương vào hỏa lực phi pháo và không yểm, Đại Đội I/3/26 của Đại Úy Dabney đã đánh cho một tiểu đoàn Cộng quân tan tành manh giáp. Trong trận này, Hoa Kỳ mất 7 người, Bắc quân mất 103 (Khe Sanh Veterans Home Page, Time Line). <br /><br />Ngày 20 tháng 1/1968, một biến chuyển quan trọng bất ngờ xảy rạ Lúc 2 giờ chiều, một viên trung úy Bắc Việt tên Lã Thanh Tòng thuộc Sư Đoàn 325C đột nhiên ra đầu thú. Trung Úy Tòng cho biết đêm nay Bắc quân sẽ mở cuộc tấn công lên các ngọn Đồi 861 và 881-Bắc. Ngoài ra, người tù binh cũng tiết lộ rằng hai sư đoàn 304 và 325C của Bắc Việt đã vạch sẵn kế hoạch đánh chiếm căn cứ Khe Sanh. <br /><br />Đúng như lời khai của Trung Úy Tòng, lúc 12 giờ 30 rạng ngày 21 tháng 1/1968, Cộng quân dùng đại bác bắn vào Đồi 861. Trước hết, kho chứa đạn của Thủy Quân Lục Chiến ở trên đồi trúng đạn pháo kích rồi nổ tan. Kế đến, lực lượng Cộng Sản gớm 300 cán binh chuẩn bị xung phong lên đồị Nhưng Đại Đội K/3/26 biết trước. Họ gờm súng chờ đợị. Trận đánh kéo dài đến 5 giờ 30 sáng, Cộng quân rút lui để lại 47 xác. Phía bên Đại Đội K/3/26 có một binh sĩ tử trận. <br /><br />Trong khi ấy ở căn cứ Khe Sanh, quân trú phòng luôn chú tâm theo dõi các diễn biến trên Đồi 861. Khi trận đánh kết thúc gần 6 giờ sáng, họ nghe nhiều tiếng "depart" từ xa vọng lạị Bầu trời đột nhiên đổ cơn mưạ Những hạt mưa to bằng sắt thép với đường kính từ 81 đến 130 lỵ <br /><br />Khi quả đạnh đầu tiên lao vào căn cứ, những người lính tại Khe Sanh lập tức xuống hầm. Một số khác co lại trong giao thông hàọ Tay họ ôm nón sắt, và miệng đếm theo tiếng nổ của đạn pháo binh. Trong phút chốc, kho chứa đạn khổng lồ trong căn cứ với 1,500 tấn đã phát nổ tan tành. Phi đạo ở Khe Sanh với chiều dài 3,900 feet (1,188 m) bị cày xới lung tung, bị rút ngắn lại chỉ còn 2,000 feet (609 m). Thế mà ngày hôm đó một vài chiếc vận-tải cơ của Hoa Kỳ cũng xuống phi đạo để mang các kiện hàng cho binh sĩ ở Khe Sanh. <br /><br />Ngày 22 tháng 1/1968, tình hình nguy ngập. Tiểu Đoàn 1 TQLC Hoa Kỳ đến tăng cường Khe Sanh. Đây là một đơn vị thuộc Trung Đoàn 9. Họ đã nổi danh trong trận đánh tại Côn Thiện (Cồn Tiên) gần vùng phi quân sự vào năm 1967 vừa quạ <br /><br />Ngày 26, một lực lượng tăng viện khác được không vận vào Khe Sanh. Đó là Tiểu Đoàn 37 Biệt Động Quân của Đại Úy Hoàng Phổ. Đây là một đơn vị bộ chiến già dặn, đầy gan lì và kinh nghiệm của Việt Nam Cộng Hòạ Trách nhiệm của họ là tạo vòng đ ai phòng thủ tại khu vực ở hướng Đông ở căn cứ Khe Sanh. <br /><br />CÁC DIỄN BIẾN CHÁNH YẾU TRONG TRẬN CHIẾN TẠI KHE SANH <br /><br />20 tháng 1 Đụng độ mạnh giữa Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ và bộ đội Bắc Việt trên Đồi 881-Nam. Hai bên đều thiệt hại nặng. Trong ngày này, một Trung Úy Bắc Việt ra đầu thú và đã cho biết kế hoạch tấn công của Cộng quân vào căn cứ Khe Sanh. <br /><br />21 tháng 1 Cộng quân pháo kích vào Khe Sanh. Kho đạn trong căn cứ nổ tung, phi đạo bị hư hạị Đồi 861 bị pháo kích, nhưng các binh sĩ Hoa Kỳ trên đồi đẩy lưi cuộc tấn công của bộ đội Bắc Việt. <br /><br />22 tháng 1 Căn cứ Khe Sanh được tăng viện bởi Tiểu Đoàn 1/9 TQLC Hoa Kỳ. <br /><br />26 tháng 1 Tiểu Đoàn 37 Biệt Động Quân VNCH của Đại Úy Hoàng Phổ đến Khe Sanh. Đây là lực lượng tăng viện sau cùng trong khoảng thời gian căn cứ bị bao vâỵ <br /><br />30 tháng 1 Cộng Sản mở chiến dịch "Tổng Công Kích - Tổng Khởi Nghĩa" trên toàn lãnh thổ Nam Việt Nam. Nhiều thị xã bị tấn công, trong đó có Huế và Saigon là hai thành phố xảy ra những vụ đụng độ lớn nhất. <br /><br />6 tháng 2 Đêm 6 tháng 1/1968, bộ đội và chiến xa Bắc Việt tấn công Trại Lực Lượng Đặc Biệt ở Làng Vei, cách Khe Sanh 6 miles (10 km) về hướng Tâỵ Ngày hôm sau, Làng Vei thất thủ. <br /><br />9 tháng 2 Một trận kịch chiến xảy ra trên Đồi 64, quân Cộng Sản để lại 134 xác chết. Phía bên Hoa Kỳ có 26 binh sĩ TQLC tử thương. <br /><br />11 tháng 2 Hai vận tải cơ C-130 đáp xuống Khe Sanh. Một chiếc nổ tung vì trúng đạn pháo kích. Chiếc còn lại gấp rút được sửa chữa rồi bay "khập khễnh" về phi trường Đ à Nẵng bình an. <br /><br />21 tháng 2 Bắc Việt tấn công vào vòng đai phòng thủ tại khu vực hướng Đông ở Khe Sanh. Nhưng không chọc thủng được bức tường phòng thủ kiên cố của Biệt Động Quân VNCH. <br /><br />Tháng 2-3 Từ tháng 2 đến cuối tháng 3, cường độ pháo kích của Cộng quân tại Khe Sanh quá ác liệt. Phương pháp tiếp tế duy nhất là móc các kiện hàng vào những cánh dù rồi thả xuống từ các vận tải cơ trên vòm trờị <br /><br />23 tháng 2 Cộng quân bắn 1,300 quả đạn đại bác vào Khe Sanh. Trận địa pháo kéo dài 8 tiếng đồng hồ. Mười (10) quân nhân Hoa Kỳ bị thiệt mạng, 51 người khác bị thương. <br /><br />29 tháng 2 Bộ đội Bắc Việt mở cuộc tấn công ác liệt vào vòng đai phòng thủ ở phía Đông căn cứ, nhưng gặp phải mức kháng cự mãnh liệt của Tiểu Đoàn 37 Biệt Động Quâ n. Cả ba đợt xung phong của Cộng quân bị đẩy luị Họ để lại 70 xác chết trên trận địạ <br /><br />1 đến 15 tháng 4 Ngày 1 tháng 4/1968, cuộc hành quân PEGASUS (của quân đội Mỹ) và LAM SƠN 207 (của quân đội VNCH) được tiến hành. Chiến dịch kết thúc vào ngày 15 tháng 4/1968. Căn cứ Khe Sanh hoàn toàn được giải tỏạ <br /><br />. <br />Tổn Thất: Hoa Kỳ: 199 tử thương, 1,600 bị thương, Việt Nam Cộng Hòa: 34 tử thương, 184 bị thương, Cộng Sản Bắc Việt: 10,000 đến 13,000 tử thương. <br /><br />Lúc ấy, ngoài 6,000 TQLC Hoa Kỳ và một tiểu đoàn thiện chiến Biệt Động Quân Việt Nam, Khe Sanh lại được phòng thủ bởi hỏa lực pháo binh riêng biệt gồm một pháo đội súng cối 106 ly, 3 pháo đội đại bác 105 ly, và một pháo đội đại bác 155 lỵ Về thiết giáp, Khe Sanh có 5 xe tăng loại M-48 và 2 chi đội chiến xa M-50 Ontos với 6 khẩu đại bác 106 ly trên mỗi chiếc. Về hỏa lực yểm trợ quanh vùng, Khe Sanh nằm trong tầm tác xạ của 4 pháo đội đại bác 175 ly từ căn cứ Rock Pile và 3 pháo đội 175 ly từ căn cứ Carroll. <br /><br />Phía bên kia, lực lượng Cộng Sản cũng hùng hậu không kém. Tướng Võ Nguyên Giáp lúc ấy nắm trong tay ít nhất 3 sư đoàn. Ngoài ra, ông còn có thêm một số đơn vị biệt lập hỗ trợ khác. Các đơn vị Cộng Sản được ghi nhận như sau: <br /><br />Sư Đoàn 325C CSBV đóng quân về phía Bắc của Đồi 881 Bắc <br />Sư Đoàn 304 CSBV (xuất phát từ bên Lào) đóng quân về phía Tây Nam của Khe Sanh <br />Một trung đoàn thuộc Sư Đoàn 324 CSBV đang có mặt ở gần vùng phi quân sự, cách Khe Sanh 15 miles (24 km) về hướng Tây Bắc <br />Sư Đoàn 320 CSBV giữ vị trí về phía Bắc của căn cứ hỏ a lực Rock Pile <br />Ngoài ra, Cộng Sản huy động thêm một đơn vị Thiết Giáp với chiến xa T-54 cùng hai trung đoàn 68 và 164 Pháo Binh <br />Ngày 30 tháng 1/1968, Cộng Sản phát động chiến dịch Tổng Công Kích - Tổng Khởi Nghĩa (thường được gọi là cuộc Tổng Công Kích Tết Mậu Thân) trên toàn lãnh thổ miền Nam Việt Nam. Tại những thành phố lớn, các đơn vị Việt Cộng cố các trận đánh lớn để gây tiếng vang. Nhưng gần Khe Sanh, tình hình tương đối yên tĩnh. Nhưng sự yên tĩnh chỉ kéo dài được 6 ngàỵ <br /><br />Hôm 5 tháng 2/1968, tiếng súng khởi sự nổ trên đồi 861Ạ Một tiểu đoàn Việt Cộng (thuộc Sư Đoàn 325) mở cuộc tấn công. Địch quân chiếm một phần tại vòng đai phía Bắc trong khu vực trách nhiệm của Đại Đội E/2/26. Nhưng sau đó, Bắc quân bị đánh bật trở ra trong một cuộ c phản công quyết liệt của các binh sĩ Cọp Biển. Tổng kết trận đánh có 7 quân nhân Mỹ tử trận, phía bên kia Cộng quân thiệt mất 109 cán binh (Khe Sanh Veterans Home Page: Time Line). <br /><br />Ngày 6 tháng 2/1968, quân Cộng Sản đánh vào trại Lực Lượng Đặc Biệt ở Làng Vei, nằm gần Khe Sanh chừng 6 miles (10 km) về hướng Tâỵ Quân Bắc Việt có cả chiến xa PT-76. Và đó cũng là lần đầu tiên Thiết Giáp Bắc Việt trực tiếp lâm chiến tại miền Nam . Do Nga Sô chế tạo và cung cấp cho Cộng Sản miền Bắc, các xe PT-76 chạy trên xích sắt, được trang bị nòng súng 76 ly, và có khả năng lội nước. Tuy vỏ bọc bên ngoài tương đối mỏng, nhưng độ cứng của thép cũng đủ để ngăn chận các loại đạn trung liên từ 7.62 ly trở xuốn g. <br /><br />Trong trận Làng Vei, 11 chiến xa PT-76 của Cộng quân dẫn đầu. Theo sau là một tiểu đoàn bộ đội yểm trợ. Đây là một đơn vị thuộc Trung Đoàn 66 dưới quyền điều động của Sư Đoàn 304. Trận đánh tại Làng Vei kéo dài chỉ một ngày. Chín (9) trong số 11 chiếc PT-76 bị tiêu diệt, nhưng quân trú phòng không ngăn nổi trận biển người của đối phương. Chết trong trận này gồm hơn 200 binh sĩ Dân Sự Chiến Đấu Việt Nam cùng 10 trong số 24 sĩ quan cố vấn Hoa Kỳ. <br /><br />Ngày 9 tháng 2/1968, một tiểu đoàn Bắc Việt tấn công (tiểu đoàn này thuộc Trung Đoàn 101D của Sư Đoàn 325) Đồi 64 do Đại Đội A/1/9 Cọp Biển trấn giữ. Các vị trí phòng thủ trên đồi bị Bắc quân tràn ngập. Trong tình huống nguy cập, các binh sĩ TQLC liên lạc xin phi pháo yểm trợ. Không chút chậm trễ, các khẩu đại bác quanh vùng đều nhắm hướng Đồi 64 và tác xạ. Khi ấy, một lực lượng TQLC khác được lệnh phải đến tiếp viện Đồi 64. Trong 3 tiếng đồng hồ máu lửa này, có 150 bộ đội Bắc Việt chết và 26 binh sĩ Hoa Kỳ tử thương. <br /><br />Sau trận đánh ở Đồi 64, quân Bắc Việt tạm ngưng các hoạt động để bổ sung quân số. Chiến trường lắng dịu trong hai tuần. Đến 21 tháng 2/1968, căn cứ Khe Sanh lại bị tấn công. Lần này, một đại đội địch quân gây áp lực tại phòng tuyến của Tiểu Đoàn 37 Biệt Động Quân. Nhưng các binh sĩ Mũ Nâu VNCH đã vững vàng cố thủ. Trận này kết thúc mau lẹ. Đợt tấn công của đối phương đã bị Biệt Động Quân bẻ gảỵ <br /><br />Hai ngày sau, 23 tháng 2/1968, Bắc quân tập trung pháo binh để phục hận. Một nghìn ba trăm (1,300) quả đạn đủ loại đã được bắn vào Khe Sanh (Tom Carhart: Battles And Campaigns In Vietnam, tr.129). Trận địa pháo 8 tiếng đồng hồ này đã làm nổ tung một kho tồn trữ đạn trong căn cứ, gây thiệt mạng cho 10 quân nhân Hoa Kỳ và 51 người khác bị thương. <br /><br />Đêm 29 tháng 2, mặt trận vây-hãm Khe Sanh chợt bùng nổ với một trận bộ chiến sau cùng. Chín giờ 30 tối, một tiểu đoàn Cộng quân (thuộc Sư Đoàn 304 CSBV) đánh thẳng vào mặt Đông của Khe Sanh. Đây là khu vực trách nhiệm của các binh sĩ Biệt Động Quân VNCH. <br /><br />Nhưng sau một màn pháo kích dọn đường, và sau ba lần trận biển-người xung phong, tiểu đoàn Bắc Việt cũng không phá được phòng tuyến thép của lính "rằn rị" Đêm hôm đó, các binh sĩ Biệt Động Quân bình tĩnh chiến đấụ Họ đợi đối phương xung phong đến thật gần rồi mới kha i hỏạ <br /><br />Lúc đó trong giao thông hào khói lửa mịt mù. Nón sắt, áo giáp, cài kỹ lưỡng. Súng trường M-16 được gắn lưỡi lê (bayonet). Lựu đạn đeo ở bụng, trước ngực, hoặc choàng vaị Băng đạn sát bên người, ở hông và đầy trong túị Khi Bắc quân tấn công, tiểu đoàn Biệt Động Quân chống trã mãnh liệt. Kinh nghiệm chiến đấu và sự gan dạ của họ chính là một trong các yếu tố quan trọng giúp đẩy lui cả 3 lần xung phong của Bắc quân. Ngày hôm sau, một toán Biệt Động Quân vượt hàng rào kiểm điểm tình hình. Họ đếm được 70 xác chết địch quân trên trận địạ <br /><br />Trong tác phẩm Battles And Campaigns In Vietnam, Tom Carhart có ghi lại một cách ngắn gọn về trận đánh của Tiểu Đoàn 37 Biệt Động Quân như sau: "Rạng sáng ngày 29 tháng 2/1968, mũi tấn công duy nhất được nhắm vào vòng đai trách nhiệm của Tiểu Đoàn 37 Biệt Động Quân. Khi Cộng quân xung phong đến gần hàng rào, họ bị lính Mũ Nâu chào đón họ bằng một rừng Claymore (mìn chống cá nhân), lựu đạn và súng cá nhân. Địch quân chẳng qua được hàng rào kẽm gai chằng chịt bên ngoàị Bảy mươi (70) xác chết của họ vì vậy đã được xem như như một công cuộc bại thảm nặng nề." <br /><br />Trong các tài liệu Anh ngữ nói về trận chiến tại Khe Sanh, hầu như các tác giả và ký giả Hoa Kỳ chỉ ghi nhận mức chịu đựng bền bỉ của người lính Thủy Quân Lục Chiến. Nhưng ít ai biết đến hoặc nhắc nhở gì về sứ mạng phòng thủ của Tiểu Đoàn 37 Biệt Động Quân. May mắn thay, công trạng của họ đã được Trung Tướng Phillip Davison nhắc đến trong tài liệu Vietnam At War, The History 1946-75": ".. .[Tướng] Giáp tưởng tấn công vào tuyến phòng thủ của Biệt Động Quân VNCH sẽ dễ dàng hơn là đánh vào những nơi có Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ trấn giữ, nhưng đây không thể gọi là dễ dàng được bởi vì đơn vị Biệt Động Quân VNCH này chính là một đơn vị thiện chiến rất giỏị" <br /><br />Trận tấn công vào đêm 29 tháng 2 (cho đến rạng ngày 1 tháng 3) là trận tấn công cuối cùng của quân Bắc Việt vào căn cứ. Ngày 1 tháng 4/1968, chiến dịch giải tỏa Khe Sanh bắt đầụ Cuộc hành quân mệnh danh "PEGASUS" (của Mỹ) và Lam Sơn 207 (của Việt Nam Cộng Hòa) được khởi động với sự tham dự của nhiều đơn vị thuộc Sư Đoàn 1 Không Kỵ Hoa Kỳ và Nhảy Dù Nam Việt Nam . Trục tiến quân giải tỏa Khe Sanh được thiết lập dọc theo Quốc Lộ 9. <br /><br />Vài ngày sau, 8 tháng 4, căn cứ Khe Sanh hoàn toàn được giải tỏạ Giấc mộng tạo dựng một Điện Biên Phủ thứ hai của Võ Nguyên Giáp kể như không thành. Các binh đoàn dưới quyền chỉ huy của ông bị mất từ 10 đến 13,000 bộ độị Nhiều đơn vị bị xóa tên dưới hỏa lực hùng hậu của pháo binh và không yểm. <br /><br />Sau này, các sách vở về chiến tranh Việt Nam đều có nhiều nhận xét khác nhau về chiến thuật của đôi bên. Một lập luận cho rằng tướng Giáp muốn dụ Hoa Kỳ dồn quân vào Khe Sanh để quân Cộng Sản có thể rãnh tay tấn công các vùng khác. Một lập luận khác lại cho rằng ông Giáp bao vây Khe Sanh với lý do muốn tạo dựng một chiến thắng như Điện Biên để buộc Hoa K ỳ phải nhượng bộ rồi đầu hàng. Trong khi đó, một số tài liệu chiến sử Hoa Kỳ lại nghĩ rằng tướng Westmoreland đã "tương kế tựu kế." Ông mong Cộng quân sẽ tập trung nhiều binh đoàn gần Khe Sanh để ông có thể dùng hỏa lực pháo binh và phi cơ tiêu diệt. <br /><br />Nhưng lịch sử đã không theo vết xe lăn của Điện Biên Phủ 14 năm về trước. Năm 1968, Hoa Kỳ có đầy đủ phương tiện để phòng thủ, yểm trợ, và tiếp tế Khe Sanh trong 77 ngày, hoặc lâu dài hơn nếu cần thiết. Phía bên kia, Cộng quân đã không chiếm nổi Khe Sanh, mà lại còn bị thiệt mất từ 10 đến 13,000 bộ độị Đó là chưa kể thiệt hại trên các phương diện khác như quân cụ, chiến thuật, cùng hàng ngàn thương binh.VIET NAM QUE HUONG TOIhttp://www.blogger.com/profile/17768876020603625276noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-7636341192878165251.post-54647871616243572812009-01-29T04:41:00.000-08:002009-01-29T04:46:36.040-08:00Kho vu khi du thua cua the gioi sau Dai chien the gioi lan thu 2 da trut len dau nguoi Viet Nam (Phan I )Trận Chiến Khe Sanh <br />Linh Vũ , Jan 24, 2009 <br /> <br /><br /><br />Trong một tuần qua trên các báo chí cũng như những diễn đàn đều có post bài dịễn văn nhậm chức của Tổng Thống Barack Hussein Obama thứ 44 của Hoa Kỳ trong đó ông đã nhắc đến điạ danh 'Khe Sanh' vùng cực Bắc Nam Việt. Địa danh Khe Sanh không chỉ có những người lính của hai miền Nam Bắc Việt Nam biết đến mà hầu như những cựu chiến binh Hoa Kỳ đã từng tham chiến ở VN đều không thể quên được trong suốt hơn 42 năm qua. Trận chiến Khe Sanh một trong những trận chiến lớn nhất thế giới ngang tầm vóc với các trận như Concord , Gettyburg và Normandy . Một điạ danh nơi đèo heo hút gió đã viết đậm nét trong trang quân sử Hoa Kỳ và Quân Lực VNCH. <br /><br />Khe Sanh như thế nào mà bài diễn văn nhậm chức của Tổng Thống Hoa kỳ phải nhắc đến và người Việt chúng ta khi nghe đến điạ danh đó đều bùi ngùi xúc động. Và trong những bài dịch, một số dịch gỉa không biết vô tình hay cố ý đã bỏ sót điạ danh ' Khe Sanh' đã làm cho nhiều người trong cộng đồng bất mãn. Sau đây tôi xin mượn bài viết của Phạm Cường Lễ ' Khe Sanh 77 ngày trong năm 1968' để chúng ta nhìn lại trang sử Việt và cho những ai chưa từng biết Khe Sanh là gì có cơ hội tìm hiểu Khe Sanh như thế nào? <br /><br />1. Khe Sanh Bẩy Mươi Bẩy Ngày Trong Một Nghìn Chín Trăm Sáu Mươi Tám <br /><br />KHE SANH... một địa danh đèo heo hút gió ở vùng cực bắc Nam Việt Nam cách vùng Phi Quân Sự 14 miles (23 km) về phía Nam, và 6 miles (10 km) về phía Đông của vương quốc Làọ Nếu không có chiến tranh, nét yên tĩnh và phong cảnh nơi đây có thể sẽ được kể là một trong những gì đẹp nhất trên lãnh thổ Việt Nam. Nhưng kể từ tháng 5 năm 1959, nét an lành của thiên nhiên tại nơi này bắt đầu bị giao động. Năm đó, bộ đội Bắc Việt thiết lập hệ thống đường mòn Hồ Chí Minh để khởi động công cuộc xâm lăng miền Nam . Lúc ấy, Khe Sanh chưa phải là căn cứ hay tiền đồn. Nhưng vì nằm gần biên giới và giáp ranh Đường Số 9 --trục lộ giao điểm của ba quốc gia Nam Việt, Bắc Việt, Lào-- nên Khe Sanh đã nghiễm nhiên trở thành một trong những cứ điểm quan trọng nhất trên bản đồ của cuộc chiến Việt Nam. <br /><br />Đến 1967, các hoạt động của Cộng quân quanh vùng này bắt đầu gặp nhiều khó khăn. Quân đội Hoa Kỳ tăng cường quân số ở vùng nàỵ Họ tu bổ để Khe Sanh để trở thành một tiền đồn kiên cố. Khe Sanh nằm sát biên giới Việt-Lào, cạnh bên Quốc Lộ 9, án ngữ cửa ngõ xâm nhập của Bắc Việt vào Nam Việt Nam ở tỉnh Quảng Trị. Khi Hoa Kỳ tăng cường lực lượng quân sự để giữ Khe Sanh, tướng Võ Nguyên Giáp của Bắc Việt đã có kế hoạch bao vây để biến nơi này thành Điện Biên Phủ của người Mỹ. <br /><br />Năm 1968, Khe Sanh trở thành một địa danh nổi tiếng nhất nhì thế giớị Nhưng đó chẳng phải vì nổi tiếng qua phong cảnh đẹp nhất, khí hậu trong lành nhất, hoặc có du khách ngoại quốc đến thăm nhiều nhất. Khe Sanh thật sự đã nổi tiếng vì có nhiều trận đánh lớn xảy ra tại vùng này trong hai năm 1967 và 1968. <br /><br />Một Nghìn Chín Trăm Sáu Mươi Tám là thời điểm mà Khe Sanh được nhắc nhở đến nhiều nhất. Đó là thời điểm của Trận Chiến Tết Mậu Thân khi Việt Cộng mở chiến dịch tổng tấn công trên toàn lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòạ Trong chiến dịch này, 20,000 bộ đội Bắc Việt đã được huy động để bao vây 6,000 Thủy Quân Lục Chiến cùng khoảng 200 tay súng Biệt Đ���ng Quân miền Nam. Nhưng Khe Sanh đã chẳng thất thủ. Trận chiến trận kéo dài 77 ngày với Cộng quân hứng chịu hơn 10,000 tổn thất. <br /><br />o O o <br /><br />Nằm trên một vùng cao nguyên rộng lớn, bao quanh bởi núi đồi và cây rừng trùng điệp, Khe Sanh là một căn cứ quân sự vô cùng quan trọng ở tỉnh Quảng Trị. Năm 1962, căn cứ này được Lực Lượng Đặc Biệt Mũ Xanh (Green Berets) Hoa Kỳ xử dụng đầu tiên làm nơi xuất phát các phi vụ thám thính đi sâu vào vùng đất Làọ Vị trí chiến lược của Khe Sanh do đó đã gây nhiều trở ngại lớn lao cho công cuộc xâm lăng miền Nam của Cộng Sản Bắc Việt. <br /><br />Năm 1966, Bắc Việt phản ứng mạnh mẽ bằng cách dùng trọng pháo bắn vào Khe Sanh. Cũng trong năm này, Thủy Quân Lục Chiến (TQLC) Hoa Kỳ có mặt tại Khe Sanh để canh gác và ngăn chận các cu ộc xâm nhập của Cộng Sản Bắc Việt (CSBV) từ bên Làọ Giữa năm 1967, nhiều vụ chạm súng lẻ tẻ xảy ra quanh khu vực. Rồi sau đó là các trận chiến lớn dành giật những ngọn đồi được kéo dài đến gần cuối tháng 1 năm 1968 thì chiến trường bùng nổ dữ dộị Ba sư đoàn chính quy Bắc Việt bao vây, pháo kích, và dùng chiến thuật xa-luân-chiến đánh Khe Sanh trong 77 ngàỵ Như đã nhắc đến ở phần trên, quân Bắc Việt bị đại bại với từ 10,000 đến 13,000 cán binh tử thương (Tom Carhart: Batles And Campaigns In Vietnam, tr.130). Trong khi đó, lực lượng trú phòng Khe Sanh chỉ bị thiệt hại nhẹ. Hoa Kỳ có 199 binh sĩ Mỹ chết và 1,600 bị thương. Về phía Việt Nam Cộng Hòa, tổn thất gồm 34 quân nhân tử trận và 184 thương binh (Nguyễn Đức Phương: Những Trận Đánh Lịch Sử Trong Chiến Tranh Việt Nam, 1963-75, tr.175). <br /><br />MẶT TRẬN VÙNG KHE SANH NĂM 1967 <br /><br />Vào tháng 3 năm 1967, căn cứ Khe Sanh được phòng thủ vỏn vẹn chỉ bởi một đại đội Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ. Lúc đầu, hỏa lực tại đây chỉ gồm một pháo đội 105 ly, 2 khẩu 155 ly, cùng 2 súng cối loại 4.2 inch. Lực lượng yểm trợ gồm một đại đội Địa Phương Quân (ĐPQ) và một toán TQLC Hoa Kỳ đóng ở làng Khe Sanh (ngôi làng này cũng tên là Khe Sanh) cách căn cứ chỉ hơn 2 miles (3.5 km). Và tất cả đều được yểm trợ bởi các khẩu pháo binh 155 ly và 175 ly ở hai căn cứ hỏa lực Carroll và Rock Pile gần đó. <br /><br />Ngày 24 tháng 4 năm 1967, một toán Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ bất ngờ đụng độ với bộ đội Bắc Việt ở một địa điểm về phía Bắc của Đồi 861. Sau đó tinh tình báo cho biết quân chính quy Bắc Việt đã tập trung đông đảo quân số về vùng nàỵ Các đơn vị Thủy Quân Lục Chiến lập tức được lệnh tăng cường cho Khe Sanh. <br /><br />Ngày 25 tháng 4, Tiểu Đoàn 3/3 (đọc là "Tiểu Đoàn 3 thuộc Trung Đoàn 3") TQLC Hoa Kỳ đến Khe Sanh. Sang ngày hôm sau, Tiểu Đoàn 2/3 TQLC lập tức tăng cường. Sang đến ngày 27, Pháo Đội B thuộc Tiểu Đoàn 1/12 Pháo Binh có mặt tại căn cứ. <br /><br />Ngày 28 tháng 4 năm 1967, sau khi được pháo binh yểm trợ, Tiểu Đoàn 2/3 TQLC Hoa Kỳ tiến chiếm Đồi 861. Cùng lúc đó, Tiểu Đoàn 3/3 cũng mở cuộc tấn công lên Đồi 881. Đây là những cụm đồi nằm gần Khe Sanh, và đã được quân đội Hoa Kỳ chọn làm những tiền đồn bảo vệ căn cứ. Trong những ngày tiếp đến, lực lượng Cọp Biển Hoa Kỳ lần lượt chiếm hết những cao điểm lân cận: đó là các ng���n đồi 861, 881-Bắc, và 881-Nam. <br /><br />Ngày 13 tháng 5/1967, Đại Tá J.J. Padley nhậm chức chỉ huy trưởng căn cứ Khe Sanh, thay thế Đại Tá J.P. Lanigan. Lúc đó, lực lượng phòng thủ được tăng cường thêm 3 tiểu đoàn thuộc Trung Đoàn 26 TQLC để thay thế cho Trung Đoàn 3. Trong khi ấy, từ 24 tháng 4/1967 đến 12 tháng 5/1967, bộ đội Bắc Việt tiếp tục công kích với nhiều màn chạm súng lẻ tẻ. Các vụ đụng độ này đã gây tử thương cho 155 binh sĩ Hoa Kỳ, nhưng quân Bắc Việt bị thiệt hại nặng hơn với 940 cán binh bỏ mạng. <br /><br />Mùa Hè 1967, sau khi bị thiệt hại nặng trong một thời gian ngắn (từ cuối tháng 4 đến giữa tháng 5), quân Cộng Sản phải tạm ngưng các hoạt động. Áp lực quân sự quanh vùng Khe Sanh giảm sút khá nhiềụ Ngày 12 tháng 8/1967, Đại Tá ẸẸ Lownds được chỉ định thay thế Đại Tá J.J. Padley trong chức vụ Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 26 Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ tại Khe Sanh. Vì tình hình lúc đó đang lắng diệu, hai trong ba tiểu đoàn TQLC của Trung Đoàn 26 Hoa Kỳ được phép rút khỏi căn cứ. Nhưng tháng 12, Tiểu Đoàn 3/26 nhận lệnh tăng cường cho Khe Sanh. Tinh tình báo cho biết hoạt động của các lực lượng Cộng Sản đã bắt đầu gia tăng quanh vùng nàỵVIET NAM QUE HUONG TOIhttp://www.blogger.com/profile/17768876020603625276noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-7636341192878165251.post-60835991346171234332008-12-17T21:14:00.000-08:002008-12-17T21:16:43.880-08:00DUOI SU HO TRO CUA NGA TAU, HO CHI MINH DA TIEU DIET CAC DANG PHAI QUOC GIA CHONG PHAP2. Quốc Dân Đảng Việt Nam, hay Mặt Trận Quốc Dân Đảng, một kết hợp chính trị của các chính đảng quốc gia yêu nước, khắc tinh của chế độ Việt Minh<br /><br />Mặt Trận Quốc Dân Đảng hay Quốc Dân Đảng Việt Nam là một kết hợp chính trị giữa ba chính đảng quốc gia năm 1945 là Đại Việt Quốc Dân Đảng của Trương Tử Anh, Đại Việt Dân Chính Đảng của Nguyễn Tường Tam, và Việt Nam Quốc Dân Đảng của Vũ Hồng Khanh nhằm chống lại chế độ bạo tàn của Việt Minh Cộng Sản giai đoạn 1945-46 mà sáng kiến tiên khởi là do Trương Tử Anh đề ra. <br /><br />Trương Tử Anh tên thật Trương Khán, bí danh Phương thường gọi là Cả Phương hay Cả Khán, sinh năm giáp dần 1914 tại làng Mỹ Thạnh, xã Hoà Phong, quận Tuy Hoà, tỉnh Phú Yên, con cụ ông Trương Bội Hoàng và cụ bà Nguyễn Thị Miên. Tổ tiên Trương Tử Anh cũng theo đòi khoa bảng với nội tổ là cụ Trương Chính Đường có chức Đề đốc vì ứng nghĩa Cần Vương năm 1885. Cụ có công trong việc lập nên Hội Văn Phổ Phú Yên, dựng Văn Chỉ ở núi Nhạn Tháp, xây Văn Miếu ở núi Cẩm Sơn, xã Hoà Quang, Tuy Hoà. Ông nội của Trương Tử Anh là cụ Trương Dụng Triều cũng là một nhà nho có ít nhiều công lao xây dựng, kiến thiết xóm làng. Thân sinh của Trương Tử Anh là cụ Trương Bội Hoàng, là một nhà nho có tân học, kết giao với các nhà cách mạng Việt Nam.<br /><br />Thuở nhỏ Trương Tử Anh học Tiểu học ở Trường Phủ tại Thị xã Tuy Hoà, học Trung học tại Quy Nhơn và Huế, đến năm 1934 theo học Luật khoa tại Trường Đại Học Đông Dương, Hà Nội. Năm 1936, nghiên cứu các triết thuyết và thảo luận quan điểm đấu tranh với các bạn bè, ông đưa ra một chủ nghĩa mới gọi là chủ nghĩa Dân Tộc Sinh Tồn mà “lập luận căn bản dựa trên tinh thần dân tộc” [19] với bản thảo viết bằng tiếng Pháp. Trong những trang bút tích còn để lại, Trương Tử Anh đã nhận xét rằng: “Mỗi nước trên thế giới đều có một hay nhiều dân tộc khác nhau. Một chủ nghĩa chính trị muốn được thành công tất phải căn cứ vào những yếu tố kể trên mới mong được dân chúng ủng hộ và có thể đem ra áp dụng được...” và ông khẳng định: “...Các chủ nghĩa đã xuất hiện trên thế giới đều không thích hợp với dân tộc ta.” [20] Các chủ nghĩa mà Trương Tử Anh nêu ra đó là chủ thuyết Cộng Sản và chủ nghĩa Quốc Xã là những lý thuyết rất thịnh hành lúc bấy giờ.<br /><br />Ngày 10/12/1938, ông công bố chủ nghĩa Dân Tộc Sinh Tồn và năm sau, 1939 đưa ra bản Tuyên cáo Quốc dân thành lập Đại Việt Quốc Dân Đảng. Trong bản Tuyên Cáo đó, Trương Tử Anh giải thích rằng: “Hai tiếng Đại Việt nêu cao ý chí tự cường, tự lập và cái hùng tâm muốn cho quốc gia mạnh mẽ lên và bành trướng mãi ra. Ba chữ Quốc Dân Đảng tỏ rằng Đảng này không phải của riêng giới nào, mà là của toàn thể dân tộc.” [21]<br /><br />Được thành lập do nghị định số 1514a của Toàn quyền Paul Beau (1902-1908) ký ngày 16/5/1906, trường Đại học Đông dương ra đời quy tụ hầu hết sinh viên ba kỳ kể cả Cao Miên và Lào nhằm lôi kéo thành phần trí thức trẻ vào các môi trường giáo dục của người Pháp. Về sau Toàn quyền Klobukowsky ký lệnh bãi bỏ rồi lại được Toàn Quyền Albert Sarraut cho phép mở lại vào năm 1918. Đây là môi trường văn hoá đồng thời cũng là môi trường chính trị thuận lợi cho các tổ chức đấu tranh, và Trương Tử Anh đã tận dụng thời điểm để tuyên truyền, vận động cho tổ chức của mình.<br /><br />Cơ cấu Trung Ương đầu tiên gồm các ông: Nguyễn Tiến Hỷ, Nguyễn Sĩ Dinh, Phạm Cảnh Hoàn, Trương Bá Hoành, Đặng Vũ Trứ, Nguyễn Sơn Hải, Tạ Thành Châm, Phan Bá Trọng, Nguyễn Tôn Hoàn, Nguyễn Định Quốc, Võ Văn Hải, Nguyễn Văn Viễn, Đặng Xuân Tiếp, Giáo Lai, BS San.<br /><br />Đảng kỳ là nền đỏ giữa có vòng tròn xanh nằm trong là ngôi sao trắng. Đây là đảng kỳ do chính Trương Tử Anh vẽ ra, được treo tại trụ sở Tỉnh bộ ĐVQDĐ Phú Yên (được coi như Tổ đình của Đại Việt) và sử dụng cho toàn đảng Đại Việt từ năm 1939 đến về sau.<br /><br />Đảng ca là bài Cờ sao trắng.<br /><br />Một cuốn sách nhỏ thứ hai dành riêng cho đảng viên chỉ dẫn về cách tổ chức và phương pháp sinh hoạt của Đảng với đơn vị căn bản là Chi bộ rồi lên đến Khu bộ và cao hơn hết là Trung ương Đảng. Phép tổ chức là của một đảng cách mạng bí mật, nguyên tắc phân cách các đơn vị được ghi chú cẩn thận. Chức vụ lãnh đạo cơ sở hạ tầng được luân phiên trao cho các đảng viên để mọi người trở nên thành thạo với đảng vụ. Kỷ luật đảng trong thời đó rất cứng rắn, chấp nhận cả hình phạt tối đa là tử hình đối với những phần tử phản quốc và phản đảng.<br /><br />Chẳng bao lâu, cơ sở của Đại Việt Quốc Dân Đảng bành trướng nhiều nơi trong nước nhờ vào thành phần trí thức, sinh viên theo học ở Hà Nội gồm trên ba miền Bắc, Trung, Nam kể cả Lào và Căm Pu Chia với các tổ chức trại hè, lửa trại, diễn thuyết, tổ chức các cuộc lễ mang tính lịch sử như Lễ giổ tổ Hùng Vương, kỷ niệm Lễ Hai Bà Trưng, Lê Lợi, Quang Trung v.v... mục đích nhằm chống lại phong trào thể thao Ducouroy do thực dân Pháp tài trợ và khuyến khích để lôi cuốn thanh niên.<br /><br />Một chứng nhân lịch sử, Đặng Văn Sung (1916 (?)-1998) nhà báo, cựu nghị sĩ VNCH, hoạt động cùng thời với Trương Tử Anh tại Hà Nội năm 1943 cho biết: “Lý thuyết Đảng hồi đó tôi được đọc qua một tập nhỏ lớn cỡ quyển lịch gập đôi lại, dày đâu mươi trang. Cái quan trọng nhất là không Mác xít. Tôi tuyên thệ với Trương Tử Anh và chỉ biết thêm một đảng viên khác là ông Hướng, người giới thiệu tôi. Tôi chưa dự một sinh hoạt đảng nào theo kiểu họp hành có bí thư chi bộ, tỉnh bộ, có báo cáo kiểm điểm công tác...”[22] <br /><br />Nói về phong thái bề ngoài của Trương Tử Anh, Đặng Văn Sung cho biết như sau: “Đó là một người tầm thước, chắc chắn, nước da ngăm đen, biết mình nói gì và quan trọng hơn cả là biết nghe, nhất là những lời phê bình hợp lý.” [23]<br /><br />Trong hồi ức Việt nam, một thế kỷ qua, Bác sĩ Nguyễn Tường Bách, là em út của nhà văn Nguyễn Tường Tam, vốn là những người từng hoạt động với Trương Tử Anh, đã ghi lại hình ảnh về Đảng trưởng Đại Việt như sau: “Anh Trương Tử Anh là người có vóc dáng trung bình, khuôn mặt vuông, rắn chắc, đôi mắt đầy vẻ nghị lực và tự tin. Anh nói không nhiều nhưng mỗi câu đều chắc nịch, có sức thuyết phục... Phát triển nhiều trong trường đại học. Tại trường thuốc có anh Nguyễn Sĩ Dinh cùng lớp với tôi, và mấy anh dưới một lớp như Nguyễn Tiến Hỹ tự Phan Trâm, Nguyễn Tôn Hoàn, Đặng Văn Sung... Ngoài ra còn có anh Bùi Diễm...” [24]<br /><br />Với cuốn hồi ký chính trị Gọng kìm lịch sử, tác giả Bùi Diễm cho biết cuộc gặp gỡ lần đầu của ông với Đảng Trưởng Trương Tử Anh đã để lại dấu ấn khó phai nhạt trong ký ức của mình: “Cuối năm 1944 và bước sang 1945, sau một thời gian hoạt động trong tiểu tổ của đảng Đại Việt, tôi bắt đầu cảm thấy là phạm vi hoạt động chật hẹp quá, ngoài ra tôi còn thấy nhiều người nói tới ông Trương Tử Anh, đảng trưởng Đại Việt, một người mà các đồng chí vẫn thường kính cẩn gọi là Anh Cả Phương. Từ đó một ý kiến nẩy ra trong đầu tôi là phải cố gắng gặp ông cho kỳ được. Lúc đầu tiên thì thật là khó khăn. Hỏi ai thì câu trả lời cũng là: “Không được đâu! Phải qua hệ thống chứ!” Một đôi khi vì nôn nóng muốn được gặp ông, tôi bắt đầu tự hỏi rồi đây nếu không được gặp, thì liệu có còn đủ tin tưởng tiếp tục hoạt động không? Nhưng rồi không bao lâu sau, do một sự tình cờ, ngẫu nhiên tôi được toại nguyện và từ đó có duyên may làm việc gần ông trong suốt thời gian trước khi ông bị mất tích cuối năm 1946.<br /><br />Một hôm tôi đến chơi nhà một người bạn cũ cùng học trường Bưởi, ban Toán năm Tú Tài phần hai. Tên anh là Phúc, ở trường chúng tôi thường gọi anh là Phúc Toét. Tuy không biết chắc, tôi vẫn ngờ ngợ anh cũng là người trong đảng. Nên nhân dịp trên đường về nhà, tôi ghé qua thăm anh. Khi tới, thì tôi không còn nghi ngờ gì nữa, vì thấy hai người bạn khác mà tôi biết đích là đảng viên, cùng ngồi họp ở phòng bên trong với một người đã đứng tuổi, dong dỏng cao, trán hói, mắt sáng. Phúc chạy ra và bảo tôi lúc khác trở lại. Tôi hỏi ai đó, thì Phúc một phần vì biết tôi đã lâu và một phần khác có lẽ cũng buột miệng nên trả lời rằng: “Anh Cả Phương đấy chứ ai!” Thế là tôi khựng lại, nhất định không chịu đi nữa. Và Phúc cũng phải chịu, không đẩy tôi đi được. <br /><br />Trái với sự tưởng tượng trong đầu óc tôi, ông Trương Tử Anh trong buổi gặp mặt ban đầu không có dáng nghiêm nghị, lạnh lùng của một lãnh tụ. Ông tỏ ra dễ dãi, cởi mở và thân mật. Ông mỉm cười và tôi nhìn thấy qua ánh mắt tinh anh của ông, có sức gì thu hút khiến tôi cảm thấy ông là người tôi có thể tin tưởng và theo được. Ông hỏi tôi là đã thấu hiểu được lý thuyết Dân Tộc Sinh Tồn của đảng chưa, và khuyên tôi nên hỏi Phúc nếu còn điều gì chưa hiểu. <br /><br />Lúc đó tôi còn trẻ, lại thêm tính hiếu thắng, nên ông chưa nói hết, tôi thưa lại ngay: “Phúc cùng học với tôi, về môn triết học hắn còn thua tôi thì còn giúp gì được tôi!” Không hiểu ông Trương Tử Anh nghĩ gì về phản ứng bất ngờ và ngây ngô của tôi, nhưng ông phì cười rồi bảo tôi: “Thôi được rồi, tôi sẽ gặp anh sau”. Tôi ra về, mừng quá, rồi như qua một thứ trực giác nào đó, tôi nghĩ là đã tìm được người gửi gắm niềm tin tưởng của tuổi trẻ.” [25]<br /><br />Ngày 4/10/1941 Trương Tử Anh bị Pháp bắt, đày lên Hoà Bình đến tháng 7 năm 1942 mới được thả ra nhưng bị chuyển về Phú Yên quản chế. Tại đây Trương Tử Anh đã trực tiếp lãnh đạo 20.000 nông dân Phú Yên, cùng với Tỉnh bộ Đại Việt QDĐ chống lại tập đoàn tư bản Pháp – Hoà Lan trong Công Ty Đường (Société Sucrière d’Annam) vì họ sang đoạt đất đai của nông dân để trồng mía. Đầu năm 1943, ông trốn ra Bắc và hoạt động trở lại, bị Pháp bắt giam rất nghiêm ngặt nhưng cơ sở đảng đã tổ chức giải thoát cho ông và bị tra tấn đến thọ bệnh nên ông phải giả điên để được đưa tới chữa tại nhà thương Cống Vọng gần Hà Nội (bệnh viện René Robin). Ngày 2/9/1944 ông trốn khỏi nhà thương này cho đến sau ngày Nhật đảo chính Pháp ông mới xuất hiện trở lại. <br /><br />Từ sau cuộc diện kiến bất ngờ nói trên, tác giả Bùi Diễm cho biết ông có dịp may làm việc với Đảng Trưởng trong nhiều công tác. Trương Tử Anh lúc bấy giờ lo tổ chức một số căn cứ như ở Bắc Giang và Thanh Hoá nên điều động ông Bùi Diễm vào Thanh Hoá để tăng cường cho cơ sở vùng này nhưng sau đó lại thay đổi ý kiến và đưa ông vào Huế liên lạc với cụ Trần Trọng Kim, về sau lại đưa ông Bùi làm liên lạc viên với Phan Kế Toại đang được cử làm Khâm sai tại miền Bắc. Tác giả Gọng kìm lịch sử cho biết cảm tưởng của mình đối với Trương Tử Anh: <br /><br />“Càng được dịp làm việc gần ông, tôi càng khâm phục ông là người có đảm lược. Về cá nhân ông, người ta chỉ biết ông sinh trưởng ở miền Trung và đã tham gia cách mạng từ lúc còn trẻ, tuy nhiên ai cũng cảm thấy ông là người có khí phách và bản lãnh. Với một vẻ mặt trầm tĩnh và quắc thước, ông là một nhà lãnh đạo thông minh, tự tin là có khả năng góp phần vào việc xây dựng lại đất nước.” [26]<br /><br />Ngày 22/2/1945, Trương Tử Anh cử hai đảng viên cao cấp là Nguyễn Sĩ Dinh và Phạm Cảnh Hoàn tức Phạm Hy Tống (hay Phạm Nguyên Cảnh) kết hợp với Nguyễn Tường Long (Đại Việt Dân Chính Đảng), Nguyễn Xuân Tiếu (Đại Việt Quốc Xã Đảng), Lý Đông A tức Nguyễn Hữu Thanh (Đại Việt Duy Dân Đảng), cùng nhóm Ngô Thúc Địch, Nhượng Tống, Nguyễn Ngọc Sơn, Nguyễn Thế Nghiệp thuộc Tân Việt Nam Quốc Dân Đảng để thành lập một mặt trận chính trị mới đặt tên là Đại Việt Quốc Gia Liên Minh, cử Nguyễn Xuân Tiếu tức Nguyễn Lý Cao Kha, tức Tiếu Rùa làm Chủ Tịch liên minh này. Về sau Nguyễn Xuân Tiếu có ý đi với Nhật nên Đại Việt Quốc Dân Đảng rút ra khỏi mặt trận này vì sợ mang tiếng là người của Nhật.<br /><br />Sự hình thành một mặt trận chính trị chung giữa ba chính đảng Đại Việt Quốc Dân Đảng, Việt Nam Quốc Dân Đảng và Đại Việt Dân Chính Đảng khởi đầu từ ngày 12/4/1945 khi Đảng Trưởng Trương Tử Anh gửi một phái đoàn sang Trùng Khánh (Trung Quốc) thương nghị với cấp lãnh đạo Việt Nam Quốc Dân Đảng và Đại Việt Dân Chính Đảng để thành lập một tổ chức chung lấy tên là Quốc Dân Đảng. Bác sĩ Nguyễn Tiến Hỷ trong cuộc gặp Nguyễn Tường Tam ở ga Khai Viễn, Vân Nam thẳng thắn duyệt lại quá trình phát triển của Đại Việt Dân Chính tại quốc nội. Từ ngày Nguyễn Tường Tam phải lưu vong đến nay, Đại Việt Dân Chính tại quốc nội không phát triển được, chỉ quanh quẩn trong giới văn học và nghệ sĩ, trong hàng ngũ trí thức mà thôi. Nguyễn Tường Tam cũng công nhận một chính đảng như vậy là không có quần chúng, chỉ có bộ đầu não lãnh đạo. Phải có sự đoàn kết, hợp sức chung của nhiều lực lượng khác nhau nữa mới lãnh đạo được quần chúng. Bác sĩ Nguyễn Tường Bách, trong cuốn Việt Nam, những ngày lịch sử, cho biết: “Ít lâu sau, anh Tam theo đường Lào Cai về đến Hà nội. Đã gần 5 năm tôi mới gặp lại anh. Cả nhà đều vui mừng. Đương nhiên mừng nhất là chị Tam và các con và bà mẹ. Chúng tôi mừng có người anh về chỉ dẫn hành động. Trông anh gầy và đen nhưng rắn rỏi, ít vẻ thư sinh nho nhã hơn trước. Anh đã dựa vào Đồng minh và đưa tổ chức cũ sáp nhập vào Việt Nam Quốc Dân Đảng. Nhưng tôi xem ra anh không thấy hứng thú lắm với chủ nghĩa tam dân. Chủ trương của anh giống anh Long, tán thành chủ nghĩa dân chủ, xã hội theo lối Tây phương.” [27] <br /><br />Nhất Linh Nguyễn Tường Tam sinh ngày 25 tháng 7 năm 1906 tại huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương. Năm 1927 du học Pháp, đậu cử nhân khoa học. Về nước dạy học, làm báo Phong Hoá, thành lập Tự Lực Văn Đoàn (1933). Năm 1939 Nguyễn Tường Tam lập đảng Hưng Việt, sau đổi thành Đại Việt Dân Chính. Năm 1942 Nhất Linh chạy sang Quảng Châu. Trong thời gian từ 1942 đến 1944 học Anh văn, Hán văn, hoạt động trong Cách Mạng Đồng Minh Hội, rồi về Côn Minh hoạt động trong hàng ngũ Việt Nam Quốc Dân Đảng. Giữa năm 1945, Nguyễn Tường Tam trở về Hà Giang với quân đội, nhưng rồi lại quay lại Côn Minh và đi Trùng Khánh. Đầu tháng 6 năm 1946, Nguyễn Tường Tam trở về Hà Nội, hợp tác với chính phủ liên hiệp kháng chiến, giữ ghế bộ trưởng ngoại giao, cầm đầu phái đoàn Việt Nam đi dự hội nhgị trù bị Đà Lạt. Được cử làm trưởng phái đoàn đi dự hội nghị Fontainebleau, nhưng ông từ chối và bỏ sang Tàu, gặp cựu hoàng Bảo Đại, và ở lại Trung Hoa bốn năm [28]. <br /><br />Trong bài “Một vài kí vãng về Hội nghị Đà Lạt”, Hoàng Xuân Hãn đã viết về Nguyễn Tường Tam như sau: “Cử chỉ lễ độ, ăn nói chững chàng, trong buổi xã giao hội họp với kẻ chức trách, hoặc phái viên Pháp, ảnh đã có thái độ cử chỉ đoan nghiêm và đúng mức, không làm thẹn chức vụ bộ trưởng Ngoại Giao và chủ tịch phái đoàn Việt Nam.” [29]<br /><br />Tác giả Nguyễn Tường Bách đã ghi nhận về Nguyễn Tường Tam trong thời gian ở Trung Hoa (1946-51) như sau: “Anh Tam hồi ấy có lẽ vì mệt mỏi nên mắc bệnh suy nhược thần kinh. Mọi người chủ trương anh phải tỉnh dưỡng một thời gian, không nên tham gia những hoạt động có thể đưa lại những kích thích quá mạnh.”[30] .<br /><br />Năm 1954, Nguiễn Ngu Í ghi lại hình ảnh của Nhất linh với những cảm nhận đầy “bùi ngùi vô hạn” như sau: “Anh dường như yếu nhiều, và chẳng những tay anh hơi run, mà phía dưới hai gò má anh cũng giật lia, giọng anh liu líu, hơi nói chẳng được dài. Và cả người anh một cái gì mệt mỏi, chán chường.” [31]<br /><br />Trái với hai bức chân dung đầy vẻ chính trị của Trương Tử Anh và Nguyễn Tường Tam khắc hoạ theo ghi nhận của các người đương thời nói trên, hình ảnh của một lãnh tụ quân sự của Vũ Hồng Khanh được ghi lại như sau: “Anh Vũ Hồng Khanh, lãnh tụ lưu vong của Việt Quốc ở Vân Nam, là người mà chúng tôi nghe tiếng từ lâu và cũng mong anh trở về. Tháng 10, anh theo đường Lào Cai, về nước. Dọc đường anh để lại một số đồng chí họp cùng với các đảng bộ địa phương, dưới sự che chở của quân Vân Nam đã chiếm lĩnh các tỉnh Hà Giang, Lào Cai, Yên Bái, Phú Thọ, Việt Trì và Vĩnh Yên làm cứ điểm, dựng cờ Việt Quốc, khiến chính quyền địa phương của Việt Minh phải rút ra nông thôn. Đó là những thổ phỉ mà chính phủ tuyên bố nhất định sẽ tiêu diệt. Vũ Hồng Khanh lúc bấy giờ mới hơn 40 tuổi, đã trốn sang Tàu, sau cuộc khủng bố của Pháp năm 1930. Anh đã có công tổ chức đảng trong số đông Việt kiều trên đường xe lửa Hà Khẩu – Côn Minh. Trông anh khỏe mạnh, nước da đen rắn rỏi, đôi mắt bé và lanh lợi. Chủ trương của anh là theo Chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn, thân Trung Quốc và tất nhiên không tán thành Cộng Sản. Trong hành động, anh tỏ ra rất gan dạ và bình tĩnh. Chỗ yếu của anh lại là nhược điểm chính: Không những không thông thạo về lý thuyết cách mệnh mà còn thiếu nhìn xa trông rộng nên không thể đem đến cho toàn đảng một sách lược đứng đắn, một chiến lược lâu dài. Đối với công tác tuyên truyền, tổ chức ở trong nước, anh lại không am hiểu lắm, nên không đi được đến chỗ thống nhất và tăng cường lực lượng nội bộ. Mà đó mới chính là cơ sở của thắng lợi.” [32]<br /><br />Vũ Hồng Khanh tên thật Vũ Văn Giản, sinh năm 1901 tại làng Thổ Tang, tỉnh Vĩnh Yên, theo Nguyễn Thái Học làm cuộc khởi nghĩa 1930, thất bại, lưu vong sang Tàu để tránh thực dân Pháp bắt, về lại VN năm 1945, cùng với Hồ Chí Minh ký hiệp định 6/3/1946 với đại diện Pháp là Sainteny, bị nhiều người phản đối vì cho rằng “họ Vũ đã độc tài, tự ý làm một việc tối quan trọng đến vận mạng Quốc gia, đến Đảng, mà không đưa ra thảo luận trước Tổng Bộ.” [33]<br /><br />Trong cuốn hồi ức Bác Hồ, những kỷ niệm không quên, Phùng Thế Tài là một cận vệ của Hồ Chí Minh cho biết đã từng có lần đánh lãnh tụ Vũ Hồng Khanh và làm cho các tay em của ông này khiếp sợ. [34]<br /><br />Sau ngày nổ ra cuộc kháng chiến toàn quốc tại Hà Nội 19/12/1946, Vũ Hồng Khanh trốn sang Tàu, sau về Hà Nội tổ chức lại VNQDĐ, di cư vào Nam năm 1954. Năm 1967, ông ra ứng cử Tổng Thống VNCH và thất cử. Sau ngày 30/4/1975, ông bị CS bắt đi cải tạo nhưng vẫn tỏ rõ được khí phách can trường của một lãnh tụ đảng phái quốc gia. Lúc bấy giờ khoảng tháng 12/1975, tại trại cải tạo Thủ Đức (vốn là Trung tâm Nữ cải huấn Thủ Đức trước 1975) có khoảng trên 400 nhân viên cao cấp và đảng phái VNCH bị giam giữ tại đây (tôi cũng bị giam chung) và đang “học tập” về “10 bài về tội ác của Mỹ Nguỵ”. Cụ Vũ Hồng Khanh bị giam tại buồng số 10 (tôi buồng 6). Một hôm có tên tướng Công an VC Nguyễn Quyết đến thăm trại giam được ban giám thị dẫn đến buồng 10, và mọi tù nhân trong buồng đều buộc hiện diện nghiêm chỉnh để chào Quyết. Khi Quyết đi ngang cụ Vũ, y dừng lại và cất tiếng hỏi: “Anh Khanh, anh mà cũng có mặt ở đây à? Anh vào đây vì tội gì?” Cụ Vũ không trả lời, nên tên Quyết tiến lại gằn giọng một lần nữa mỉa mai: “Anh Khanh, anh tội gì mà vào đây?” Cụ Vũ ngẩng đầu lên nhìn thẳng vào mặt Quyết, trả lời: “Thưa cán bộ, tội làm cách mạng!” Quyết có sắc giận hỏi tiếp: “Anh mà cũng dám nói là làm cách mạng à?” Cụ Vũ hiên ngang đáp lại rõ ràng từng tiếng một: “Thưa cán bộ, năm 1927, khi chưa có cái gọi là Đảng Cộng Sản Đông Dương, một số anh em chúng tôi đi theo Nguyễn Thái Học, thành lập Việt Nam Quốc Dân Đảng, lập chiến khu, tổ chức đánh nhau với thực dân Pháp giành độc lập cho đất nước, tự do cho nhân dân, thì việc làm đó, hành động đó không gọi là làm cách mạng thì gọi là gì, thưa cán bộ?” <br /><br />Tên Quyết ngớ người ra, cứng họng vội bước một mạch ra khỏi buồng. Tháng 10 năm 1978, cụ Vũ Hồng Khanh được tha và chỉ định cư trú tại làng Thổ Tang, sống với một người con gái và mất năm 1990 tại quê nhà.<br /><br />Như đã nói ở trên, Quốc Dân Đảng Việt Nam hay Mặt Trận Quốc Dân Đảng là một kết hợp chính trị giữa ba chính đảng quốc gia của Trương Tử Anh, Nguyễn Tường Tam và Vũ Hồng Khanh nhằm đối phó với Mặt Trận Việt Minh của Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng v.v... tại Hà Nội giai đoạn 1945-1946. Trung Ương Đảng Bộ của Mặt Trân Quốc Dân Đảng gồm hai bộ phận bí mật và công khai.<br />Tối cao bí mật chỉ huy bộ: <br /> Trương Tử Anh, Nguyễn Tiến Hỷ, Vũ Hồng Khanh, Nghiêm Kế Tổ và Nguyễn Tường Tam <br />Chủ tịch đoàn công khai: <br />Chủ tịch: Trương Tử Anh (ĐVQDĐ) <br />Bí Thư Trưởng: Vũ Hồng Khanh (VNQDĐ)<br />Uỷ viên: Xuân Tùng (VNQDĐ)<br /> Nguyễn Tường Long (ĐVDCĐ) <br /> Phạm Khải Hoàn (ĐVQDĐ) <br />Uỷ viên Trung ương: <br />Tổng Thư ký Trung Ương Đảng Bộ: Nguyễn Tường Tam (ĐVDCĐ)<br />Uỷ viên: <br /> Nguyễn Tường Bách (ĐVDCĐ)<br /> Chu Bá Phượng (VNQDĐ) <br /> Nguyễn Văn Chấn (VNQDĐ)<br /> Vũ Đình Trí (VNQDĐ)<br /> Phạm Văn Hể (VNQDĐ)<br /> Nghiêm Kế Tổ (VNQDĐ)<br /> Nguyễn Tiến Hỷ (ĐVQDĐ)<br /> Phạm Ngọc Chi (ĐVQDĐ) <br /><br />Trụ sở của Trung Ương đóng tại Trường Tiểu Học Đỗ Hữu Vị, Hà Nội từ ngày 15/12/1945, và sau ngày 13/7/1946 thì dời về số 83 phố Hàng Đẫy. Đảng kỳ của Mặt Trận này gồm nền đỏ vòng tròn xanh ngôi sao trắng vốn là đảng kỳ của Đại Việt Quốc Dân Đảng, đảng ca là bài “Việt Nam Minh Châu Trời Đông” của Hùng Lân. Cơ quan ngôn luận là nhật báo Việt Nam và tuần báo Chính Nghĩa. Các bộ phận của ba chính đảng tại mỗi tỉnh thống nhất hoạt động với nhau theo từng địa phương với một danh xưng duy nhất là Quốc Dân Đảng Việt Nam. Trong bài viết “Đảng cộng sản khui lại vụ Ôn Như Hầu”, được đăng tải trên Thông Luận, và website của Việt Nam Quốc Dân Đảng của ông Lê Thành Nhân, tác giả Nghiêm Văn Thạch nói rằng “Cần nhắc lại là vào lúc đó hai đảng Đại Việt Quốc Dân Đảng do ông Trương Tử Anh lãnh đạo và Việt Nam Quốc Dân Đảng đã đi tới thống nhất dưới danh xưng chung là Việt Nam Quốc Dân Đảng, gọi tắt là Quốc Dân Đảng” [35] là không đúng. Mặt trận kết hợp chính trị đó gồm ba chính đảng đó là Đại Việt Quốc Dân Đảng, Đại Việt Dân Chính Đảng và Việt Nam Quốc Dân Đảng, có tên gọi chung là Mặt Trận Quốc Dân Đảng hay Quốc Dân Đảng Việt Nam.<br /><br />Việc ông Vũ Hồng Khanh tự ý ký hiệp định sơ bộ 6/3/1946 với Hồ Chí Minh và Sainteny cho phép người Pháp trở lại Bắc Việt là một đòn giáng chí tử vào nội bộ Mặt Trận Quốc Dân Đảng. Nhiều người rất bất bình thái độ của họ Vũ trong đó có lãnh tụ Trương Tử Anh. Chính vì vậy, lực lượng của Đại Việt Quốc Dân Đảng cơ hồ rút ra khỏi tổ chức này để tránh bị tiêu diệt. <br /><br />Trong thời điểm ấy, Trương Tử Anh chú ý tổ chức một trường quân sự có tên Trường Võ Bị Trần Quốc Tuấn tại Chapa, phía trên Lào Kay, giáp giới với tỉnh Vân Nam. Trường này do một số sĩ quan Nhật Bản đảm trách mặc dù lúc đó Nhật đã đầu hàng. Một viên đại tá Nhật tên Việt là Hùng nói với hơn hai trăm học viên vốn là bạn bè của ông Bùi Diễm hay con cái của những gia đình quen thuộc có liên hệ hoạt động trong Mặt Trận Quốc Dân Đảng của Trương Tử Anh: “Chúng tôi có nhiệm vụ giúp các anh để các anh trở thành cấp lãnh đạo của Việt Nam về sau này.”<br /><br />Vì là một nhân chứng hoạt động sát cánh với Trương Tử Anh nên ông Bùi Diễm đã có những ghi nhận về thế lưỡng đầu thọ địch của các đảng phái quốc gia lúc bấy giờ như sau: “Tôi vừa ở Lạng Sơn về đến Hà Nội vào giữa tháng ba thì được tin là sẽ có cuộc đàm phán sơ khởi với Pháp ở Đà Lạt và phái đoàn Việt Nam sẽ do Bộ Trưởng Ngoại Giao của chính phủ liên hiệp là ông Nguyễn Tường Tam cầm đầu. Thấy vậy, tôi cũng yên tâm phần nào, nhưng đến khi tôi tới gặp ông Trương Tử Anh để tường trình về việc đưa cụ Kim sang Tàu, thì không hiểu ông nhận định tình hình lúc đó ra sao mà, nửa đùa nửa thất, ông bảo tôi: “Cứ cái đà này thì không những Tây không nhả mình ra mà Việt Minh họ cũng không tha mình!” Những biến chuyển mấy tháng sau đó quả là đúng như lời ông nói.” [36]<br /><br />Theo hệ thống tổ chức riêng của Mặt Trận Quốc Dân Đảng, Bắc Kỳ được chia làm 5 Khu Đảng Bộ; Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh là Đệ lục Khu Đảng Bộ, Đệ thất Khu Đảng Bộ là từ Đèo Ngang (Quảng Bình) vào cho tới Đèo Cả (Phú Yên). Phía nam Đèo Cả và Nam Bộ có 3 Khu Đảng Bộ. <br /><br />Theo ghi nhận của Minh Vũ Hồ Văn Châm, “Nhìn chung các Khu bộ miền Bắc nặng về quân sự, phần đông đảng viên là từ Trung Quốc kéo về, thiên về đường lối bạo lực vũ trang để chiếm đóng lãnh thổ và cướp đoạt chính quyền hơn là nhẫn nại đấu tranh chính trị để tranh thủ nhân tâm và củng cố cơ sở hạ tầng. Các Khu bộ miền Nam còn non trẻ, hầu hết cán bộ nòng cốt là nhóm sĩ quan Lạc Triệu của Đại Việt Quốc Dân Đảng theo Phạm Cao Hùng (Triệu Giang) vào tăng cường. Rút lại chỉ có Đệ Lục và Đệ Thất Khu Bộ là vững vàng về ý thức hệ chính trị và tổ chức cơ sở. Tại Thanh Hoá, Quốc Dân Đảng Việt Nam xây dựng chiến khu Gi Linh, Bái Thượng thành một căn cứ vững chãi. Tại Huế, nơi đặt trụ sở Đệ Thất Khu Bộ, Bửu Hiệp (Bác sĩ, Xứ Uỷ Trưởng Đại Việt Quốc Dân Đảng, chú thích của NĐC) đã khéo léo lãnh đạo đảng viên đặt quyền lợi quốc gia trên tỵ hiềm đảng phái, hàng ngày cắt cử Nguyễn Trung Thuyết và Ngô Văn Hân vào Đại Nội họp bàn với Tố Hữu để giải quyết các vụ xung đột phe phái. Tại Quảng Nam, Trương Phước Tường, Phan Bá Lân, Hoàng Tăng (Hoàng Bình), Phan Ngô, Huỳnh Hoà, Nguyễn Đình Thiệp, từ cuối năm 1945, đã xây dựng nhiều cơ sở quần chúng vững mạnh. Bởi vậy, ở Miền Trung Trung Bộ, chính quyền tuy nằm trong tay Việt Minh nhưng lòng dân thì hơn phân nửa theo về Quốc Dân Đảng Việt Nam. Bàn tay của Đệ Thất Khu Bộ còn vươn dài ra tới Hà Nội. Đệ Thất Khu Bộ tổ chức một trung tâm huấn luyện tại số 9 phố Ôn Như Hầu, Hà Nội, do Phan Kích Nam (Phan Xuân Thiện) phụ trách, để cung ứng cán bộ trung cấp cho Trung Ương và cho các Khu Bộ bạn.”[37]VIET NAM QUE HUONG TOIhttp://www.blogger.com/profile/17768876020603625276noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-7636341192878165251.post-24374097259561891962008-12-17T21:12:00.000-08:002008-12-17T21:13:43.060-08:00HO CHI MINH CHU TRUONG AM SAT TAT CA NHAN TAI DE TRANH NGOI BA CHU ( PHAN I )Chính sách gian trá và đường lối bạo lực<br />của cộng sản trong việc đàn áp<br />các đảng phái quốc gia<br />Nguyễn Đức Cung<br />“…từ năm 1945 cho đến ngày nay, chính quyền Cộng Sản vẫn sử dụng chính sách gian trá và đường lối bạo lực đối với những ai bất đồng chính kiến với họ với mục đích duy nhất là nắm chắc được quyền hành trong tay …”<br />Trong cuốn hồi ký nổi tiếng có tên Một cơn gió bụi, sử gia Trần Trọng Kim đã viết như sau về chính sách của Việt Minh đối với các chính đảng quốc gia: <br />“Cái thủ đoạn của Việt Minh là dùng mọi cách bạo ngược, tàn nhẫn, giả dối, lừa đảo để cho được việc trong một lúc. Ngay như họ đối với Việt nam Quốc dân đảng nay nói là đoàn kết, mai nói đoàn kết, nhưng họ vẫn đánh úp, vẫn bao vây cho tuyệt lương thực. Khi họ đánh được , thì giết phá, đánh không được thì lại đoàn kết, rồi cách ngày lại đánh phá. Dân tình thấy thế thật là ngao ngán chán nản, nhưng chỉ ngấm ngầm trong bụng mà không dám nói ra. Nên dân gian người ta thường có câu “nói như Vẹm”. Vẹm là do hai chữ Việt Minh viết tắt V.M., đọc nhanh mà thành ra.”[1]<br />Ngòi bút của sử gia họ Trần viết ra cách đây trên nửa thế kỷ nhận định về thủ đoạn của Cộng Sản Việt Nam thật chính xác với bản chất và chân tướng của Hồ Chí Minh cùng bọn đàn em cầm quyền dưới chế độ CS. Thật vậy, từ năm 1945 cho đến ngày nay, chính quyền Cộng Sản vẫn sử dụng chính sách gian trá và đường lối bạo lực đối với những ai bất đồng chính kiến với họ với mục đích duy nhất là nắm chắc được quyền hành trong tay không chia chác cho bất cứ một ai. Bản chất gian trá và hành động bạo lực của họ thể hiện qua việc nguỵ tạo hai biến cố phố Ôn Như Hầu tại Hà Nội và vụ cầu Chiêm Sơn tại Quảng Nam năm 1946 mà mục đích lừa bịp dư luận, bôi đen đối thủ chính trị nhằm loại đối phương ra ngoài đấu trường chính trị, tiêu diệt các chính đảng quốc gia trong Mặt Trận Quốc Dân Đảng hay Quốc Dân Đảng Việt Nam, một kết hợp giữa ba chính đảng gồm Đại Việt Quốc Dân Đảng của Trương Tử Anh, Đại Việt Dân Chính Đảng của Nguyễn Tường Tam, và Việt Nam Quốc Dân Đảng của Vũ Hồng Khanh, rồi tiến đến tiêu diệt các bộ phận của tổ chức chính trị mới này khắp nơi trên toàn quốc. <br /><br />Từ đó đến nay, nhiều tài liệu của Cộng Sản đã cố tình xuyên tạc sự thật về hai biến cố nói trên. Bài viết của chúng tôi đưa ra một cái nhìn tổng hợp qua một số tư liệu khả tín nhằm phản biện lại luận điệu vu cáo bẩn thỉu của chế độ Cộng Sản, mong trả sự thật về cho chân lý lịch sử. Nhưng trước khi đi sâu vào việc trình bày sự thật về hai biến cố đó, thiết tưởng cần có một cái nhìn quán xuyến về quá trình tranh chấp chính trị liên hệ tới Việt Nam trước khi thế chiến II kết thúc cùng sự hình thành Mặt Trận Quốc Dân Đảng thể hiện sức đấu tranh của các chính đảng quốc gia yêu nước giữa một tình thế vô cùng khó khăn và phức tạp trong giai đoạn lịch sử 1945 46.<br /><br />1. Vụ án mở đầu cho các tranh chấp chính trị Quốc Cộng trước Thế chiến II<br /><br />Cuối năm 1924, nhận nhiệm vụ của Đảng Cộng Sản Liên Xô trong mục tiêu bành trướng chủ nghĩa Cộng Sản qua Châu Á, Hồ Chí Minh được gửi sang Trung Hoa làm việc cho hãng thông tấn Xô Viết Rosta dưới sự điều động của Mikhail Borodin, trưởng đoàn cố vấn Comintern lúc bấy giờ đang cộng tác với Trung Hoa Quốc Dân Đảng của Tôn Dật Tiên. Nhiều tư liệu nói về sự có mặt của Nguyễn Ái Quốc tại Trung Hoa dưới bí danh Lý Thuỵ, nhưng các nhiệm vụ bên ngoài của ông thì khác nhau. Mục tiêu của Lý Thuỵ là chiếm đoạt các tổ chức của các nhà cách mạng Việt Nam đã sang Tàu trước đây để làm vốn liếng chính trị, loại trừ ảnh hưởng của các đối thủ quốc gia mà hình ảnh trước mắt Thuỵ là cụ Phan Bội Châu để giải toả các trở lực trong việc bành trướng chủ nghĩa cộng sản quốc tế trên vùng đất mới. Vả chăng mặc dù cụ Phan là bạn của thân phụ mình là Phó bảng Nguyễn Sinh Huy, nhưng Thuỵ cũng không cần lưu tâm đến vấn đề đó.<br /><br />Trong cuốn Ba nhà chí sĩ họ Phan, tác giả Đào Văn Hội cho biết nội dung việc Lý Thuỵ và Lâm Đức Thụ (tức Nguyễn Công Viễn) bán cụ Phan Bội Châu cho Pháp như sau: <br />“Sau khi cụ Phan đi Hàng Châu rồi, Lâm Đức Thụ và Lý Thuỵ triệu tập một kỳ hội nghị có hết thảy các anh em cách mạng có mặt ở Quảng Châu, trừ ra cụ Nguyễn Hải Thần, để trưng cầu ý kiến, về nhiều vấn đề quan trọng, nhứt là vấn đề tài chính.<br /><br />Không ai giải quyết được vấn dề nầy, Lâm Đức Thụ bèn đưa ra một đề nghị là “phải hy sinh một người trong anh em, hoặc về danh tiếng hay tánh mạng, miễn là đạt được mục đích có lợi cho công cuộc cách mạng”.<br /><br />Hội nghị tán thành nguyên tắc ấy rồi, Lâm nói tiếp:<br /><br />“Xét ra người mà ta có thể đem ra làm vật hy sinh ấy là cụ Phan Bội Châu. Tại sao tôi lại chọn cụ Phan mà không chọn cụ Mai Sơn hoặc cụ Hải Thần? Là vì tôi đã từng phen ướm hỏi cụ Phan nếu gặp trường hợp phải hy sinh cụ để làm lợi cho cách mạng thì cụ có chịu không? Cụ đã khẳng khái trả lời tôi thế nầy: “Tôi bôn ba hải ngoại, khi Hương Cảng, lúc Hoành Tân, chốc đã ngoài 20 năm rồi mà rốt cuộc chỉ vấp phải thất bại hoài, thêm phần tuổi đã cao, gối đã mòn, nếu có dịp được hy sinh cho tổ quốc thì dẫu chết tôi cũng vui lòng!”<br /><br />“Hai nữa, cụ là tượng trưng của cách mạng tiếng tăm đã lừng lẫy trong nước cũng như trên trường quốc tế, thực dân e dè và ước muốn cụ lắm. Họ cho rằng Cụ là linh hồn của đám Đông Du, nếu bắt được cụ, tức là phong trào tan rã.<br /><br />“Vả lại, cụ đã gần đất xa trời, ngoài việc viết báo kiếm ăn, năng lực bất quá cũng chẳng giúp ích gì cho công cuộc vận dộng cách mạng cho bọn ta được mấy.<br /><br />“Vậy tôi mạnh bạo đề nghị với anh em là bắt cụ nộp cho lãnh sự Pháp, tất nhiên họ phải hậu tạ ta một món tiền lớn. Tiền ấy ta sẽ dùng vào công việc vận động cho đoàn thể ở nước nhà.<br /><br />“Đem cụ Phan nộp cho Pháp, ta sẽ thâu được hai cái lợi:<br /><br />“Một là sau khi giải cụ về Hà Nội, tất nhiên thực dân lập Hội đồng đề hình xét xử, cụ sẽ trổ hết tài hùng biện mà biện hộ cho mình. Các báo trong nước sẽ viết những bài tường thuật và tinh thần cách mạng nhờ đó mà lan tràn và phổ cập trong hết các từng lớp dân chúng xã hội V.N.<br /><br />“Hai nữa là sẵn món tiền thưởng trên kia, ta sẽ phái anh em về nước mà tổ chức các chi bộ rồi đưa thanh niên ra huấn luyện cho nhiều thì cộng việc của ta mau có kết quả.”<br /><br />Hội nghị bàn luận sôi nổi, sau cùng, mấy lý lẽ của Lâm làm xiêu lòng cử toạ và Lâm được hội nghị ủy cho toàn quyền hành động.” [2]<br />Mấy hôm sau, người ta theo dõi và thấy Lâm Đức Thụ liên lạc với Phan Vị, một nhân viên cao cấp trong toà lãnh sự Pháp ở Hương Cảng một cách rất thân mật.<br /><br />Trong cuốn Tự Phán, tập hồi ký cách mạng của mình, cụ Phan Bội Châu kể rõ chuyện cụ bị mật thám Pháp bắt như sau: <br />“Ngày 11 tháng 5 năm Ất Sửu (1925) tôi gấp lên Thượng Hải, tính làm xong việc gửi bạc đi Béc lanh thì tức khắc xuống thuyền đi Quảng Đông. Bởi vì thuyền Thượng Hải đến Quảng Đông, chỉ 5 ngày. Khi tôi ở Hàng Châu xuất phát, có mang theo bạc Tàu 400$ tức là số bạc gửi cho ông Trần. Ai dè lúc tôi ra đi mà thời giờ hành động của tôi đã có kẻ nhất nhất mật báo với người Pháp.<br /><br />12 g chính trưa ngày 11 tháng 5 âm lịch, xe lửa Hàng Châu đi đến Bắc trạm tôi vì nóng gửi bạc cho ông Trần, nên gởi đồ hành lý ở nhà chứa đồ, chỉ nách một cái ca bâng (va li nhỏ) đi ra cửa ga thì thấy có một cỗ xe khá lịch sự, đứng xung quanh có bốn người Tây phương, tôi không nhận ra được là người Pháp. Bởi vì xứ Thượng Hải người Tây phương nước nào cũng có, khách sang trọng biết chừng nào mà kể; đem xe hơi rước khách cũng là thông lệ các lữ quán to. Tôi có biết đâu xe hơi này là do đồ của kẻ cướp bắt cóc người đâu? Tôi mới ra khỏi cửa ga vài bước, thì thấy có một người Tây hung dữ lại trước mặt tôi, dùng tiếng quan thoại mà nói với tôi rằng: “Trưa cơ xế hấn hào, xêng xiên sân sang xê”, tôi đương cự rằng: “Úộ bú giảu”. Thình lình ba người tây nữa ở sau xe, hết sức đẩy tôi lên xe, máy xe tức khắc vặn thì tôi đã vào tô giới nước Pháp! Xe chạy đến bờ bể binh thuyền nước Pháp đã chực sẵn ở đó rồi! Tôi thành ra người tù ở trong tàu binh.” [3]<br />Khoảng tháng 7 năm 1925, một chiến hạm Pháp từ Thượng Hải chở cụ Phan đến Hương Cảng rồi chuyển sang tàu Angkor của hãng Nhà Rồng đưa về Hải Phòng.<br /><br />Nhà nghiên cứu sử học Trung Hoa, Tưởng Vĩnh Kính, trong tác phẩm Hồ Chí Minh tại Trung Quốc cũng đã để nhiều công sức nghiên cứu về những tranh chấp chính trị của Lý Thuỵ trong thời gian sống tại Trung Hoa, đã có những ghi nhận một số kết quả về tài chính qua việc cụ Phan Bội Châu bị bắt ở Thượng Hải như sau: <br />“Sự việc xong, hai người chia đôi số tiền một trăm ngàn đồng đó. Ông Hồ đã dùng phần tiền của ông để tổ chức Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội; còn Thụ thì dùng tiền đó để tiêu phí trong các hộp đêm tại Hương Cảng. Và từ đó, Hồ, Thụ, hai người còn tiếp tục hợp tác trong nhiều năm nữa để bán các đồng chí của cụ Phan. Nguyên vì lúc bấy giờ, các thanh niên Việt Nam trốn sang Quảng Châu để xin vào học trường võ bị Hoàng Phố rất đông. Những ai chịu theo Hồ gia nhập Đồng Chí Hội, thì sau khi học xong, sẽ được bảo đảm bí mật trở về nước an toàn; còn những ai vẫn trung thành với tổ chức của cụ Phan, khi về đến biên giới Hoa Việt, tức thì bị mật thám Pháp bắt ngay. Những người này sở dĩ bị bắt, vì trước đó Hồ đã báo cho Thụ ở Hương Cảng biết, Thụ đem ảnh của họ nộp cho lãnh sự Pháp ở Hương Cảng. Sau khi họ bị bắt, Hồ và Thụ lại được chia nhau tiền thưởng.” [4] <br />Trong mối liên quan tới việc bán cụ Phan Bội Châu cho mật thám Pháp có ba người được nêu đích danh là Hồ Chí Minh, Lâm Đức Thụ và Nguyễn Thượng Huyền, cháu gọi cụ Nguyễn Thượng Hiền bằng chú ruột. Sử gia William J. Duiker trong tác phẩm Ho Chi Minh, a life viết rằng chính Phan Bội Châu cho biết kẻ chỉ điểm cho Pháp bắt mình là Nguyễn Thượng Huyền, nhưng theo sự phân tích của Minh Võ qua những dòng trong Phan Bội Châu niên biểu, Phan Bội Châu chỉ cho biết được nghe nói như thế và tin theo chứ không hề xác định với bằng chứng nào. [5] Cũng theo Minh Võ, sử gia Phạm Văn Sơn đã đề cập đến việc này và cho rằng Phan Bội Châu đã nghi oan cho Nguyễn Thượng Huyền. Chính Nguyễn Thượng Huyền đã lên tiếng khi biết nội vụ vào dịp về Việt Nam – “khoảng năm 1965, cụ Nguyễn Thượng Huyền có về Việt Nam và đăng một bài cải chính nói rõ vụ việc trên tờ Bách Khoasố 73”. [6] Còn Lâm Đức Thụ, theo ghi nhận của Kỳ Ngoại Hầu Cường Để, đã khoe đó là thành tích do chính mình đạt được. [7]<br /><br />Vì thế, theo Minh Võ, “việc bán Phan Bội Châu cho mật thám Pháp có thể coi là sự việc khơi gợi cho một phương pháp hành xử của Hồ Chí Minh và cũng có thể coi là hành vi mở đầu cho một phương pháp đã được trù tính trước.” [8]<br /><br />David Halberstam trong cuốn Ho, xác nhận việc Hồ Chí Minh báo cho mật thám Pháp bắt cụ Phan Bội Châu để lãnh 150.000 bạc Đông Dương. [9]<br /><br />Sau khi cụ Phan Bội Châu bị bắt, Lý Thuỵ nắm lấy tổ chức Tâm Tâm Xã (cũng còn gọi là Tân Việt Thanh Niên Đoàn) [10] của cụ Phan, biến nó thành Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội với các thành phần từng theo cụ Phan gồm 6 người như Lâm Đức Thụ tức Trương Béo (tức Nguyễn Công Viễn), Lê Hồng Phong, Lê Hồng Sơn, Hồ Tùng Mậu, Nguyễn Giản Khanh và Đặng Xuân Hồng. <br />Trong sách Việt Nam 1945 1995, Chiến tranh, Tị nạn, bài học lịch sử, Tập I, giáo sư Lê Xuân Khoa cho biết trong thời gian chuẩn bị cuộc khởi nghĩa Yên Bái, VNQDĐ có mời một số đảng viên cộng sản tham gia nhưng Trần Văn Cung không đồng ý vì cho rằng cuộc khởi nghĩa thiếu chuẩn bị và chưa có được thời cơ. Sách này cũng cho biết Nguyễn Ái Quốc về sau cũng tìm cách ngăn cản cuộc khởi nghĩa này nhưng không thể liên lạc được với VNQDĐ. [11]<br /><br />Tuy nhiên theo Hoàng Văn Đào trong Việt Nam Quốc Dân Đảng, “Trong những giờ phút nghiêm trọng ấy, cán bộ ĐDCSĐ (Đông Dương Cộng Sản Đảng) rải truyền đơn khắp nơi, tố cáo VNQDĐ sắp tấn công Bắc Kỳ. Cô Giang cầm tờ truyền đơn trao cho Nguyễn Thái Học xem, Nguyễn Thái Học đập bàn thét to: “Tôi không tin! Vì có thể nào anh em cộng sản lại có thể hành động như thế được!”. [12]<br /><br />Trên đây là những mầm mống xung đột trong quá trình tranh chấp quyền lực giữa phe cộng sản với người quốc gia mà đỉnh cao là những cuộc đụng độ trong giai đoạn 1945 46. William J. Duiker, trong Ho Chi Minh, đã ghi lại quan điểm của Nguyễn Ái Quốc “thường nhận định rằng những cuộc liên kết như vậy với các đảng phái quốc gia có thể hữu ích nhưng chỉ cho mục tiêu chiến thuật mà thôi.” [13]<br /><br />Đối với những người theo Đệ Tứ Quốc Tế, nhóm Đệ Tam Quốc Tế khi thì chống đối, lúc lại hợp tác, thí dụ cuộc bầu cử Hội Đồng Thành Phố Sài Gòn, năm 1937, cả hai hệ phái cùng đưa người ra tranh cử, một người là Tạ Thu Thâu thuộc phe Trốt Kít, hai người kia là ông Nguyễn Văn Tạo và Dương Bạch Mai thuộc hệ phái Stalin. Nhưng liền sau đó hai hệ phái lại tuyên bố tách rời [14]. Hồ Chí Minh luôn khẳng định trong các báo cáo của ông gửi cho Quốc Tế Cộng Sản: “Đối với phe Trotsky, không thể liên minh, cũng không khoan nhượng. Hãy tận dụng mọi biện pháp vạch trần bộ mặt thật tôi mọi của các tên phát xít; hãy diệt sạch bọn chúng trên địa bàn chính trị.” [15]<br /><br />Ở một dịp khác, Hồ Chí Minh tỏ ra hằn học quyết liệt hơn khi nói rằng: “Chúng ta không thể nhượng bộ điều gì cho nhóm Tờ Rốt Kít. Chúng ta phải làm tất cả mọi việc có thể được để lột mặt nạ của chúng là những con chó của Phát Xít và tiêu diệt chúng về chính trị.”[16]<br /><br />Một sự kiện lịch sử cần nhắc lại ở đây để thấy rằng nhất cử nhất động của Hồ Chí Minh, tức Nguyễn Ái Quốc, tức Lý Thuỵ đều tuân hành theo chỉ thị của Liên Xô. Ngày 3 2 1930, Hồ Chí Minh tổ chức cuộc họp thống nhất ba đảng Cộng Sản VN nhân xem một trận đấu bóng tròn tại một sân lộ thiên ở Hương Cảng, với cái tên là Đảng Cộng Sản Việt Nam mà ý chỉ của Hồ là thành lập đảng “cách mạng xã hội chủ nghĩa dân tộc” [17]. Nhưng trong kỳ đại hội đại biểu kỳ 1 tổ chức tháng 10 năm 1930, tên đảng lại được đổi thành Đảng Cộng Sản Đông Dương, với Trần Phú (bí danh Lí Quí) từng được huấn luyện ở Liên Xô, làm tổng bí thư. Liên Xô muốn Việt Nam thực hiện chương trình cách mạng vô sản quốc tế hơn là “cách mạng dân tộc” nên đã ra lệnh đổi chữ Việt Nam thành Đông Dương trong đảng danh. Bởi vậy, việc Hồ Chí Minh bán cụ Phan cho Pháp, cán bộ CS tố cáo cuộc khởi nghĩa Yên Bái của VNQDĐ, chống đối, thủ tiêu các nhóm người thuộc Đệ Tứ Quốc Tế và sau này tàn sát các lực lượng chính đảng quốc gia, các tôn giáo chống đối chủ nghĩa vô thần cũng nằm trong sách lược chung của Cộng Sản Quốc Tế. <br /><br />Trong cuộc họp báo ngày 8/12/2008 do nhà xuất bản Sabine Wespieser và Le Livre de Poche tổ chức tại Centre National du Livre ở Paris, ra mắt tiểu thuyết Au Zénith (“Đỉnh cao chói lọi”), bản dịch Việt ngữ do ông Đặng Trần Phương, 53 tuổi, Việt kiều tại Paris dịch, Dương Thu Hương tác giả cuốn sách đó, đã đưa ra chứng cớ bác bỏ thuyết cho rằng ông Hồ Chí Minh đã “bán đứng nhà chí sĩ Phan Bội Châu cho thực dân Pháp” là không có cơ sở. Vì cuốn sách mới của Dương Thu Hương chưa phổ biến đến bạn đọc nên chúng ta sẽ chờ xem bà Dương Thu Hương đã viết những gì trong đó.[18] Dĩ nhiên sử học không phải là văn chương hư cấu nhưng đòi hỏi phải có sử liệu nghĩa là nói có sách mách có chứng.VIET NAM QUE HUONG TOIhttp://www.blogger.com/profile/17768876020603625276noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-7636341192878165251.post-20164001137463253012008-12-12T04:28:00.000-08:002008-12-12T04:37:38.116-08:00XA HOI CONG SAN CO PHAI LA NHA TU KHONG?THIEN DUONG CONG SAN HAY THE GIOI LOAI VAT<br />NGUOI DAN VIET NAM DA BIET TAT CA SU THAT, BIET RO CAC TOI AI MAN RO CUA CSVN. BAY GIO LA NGAY TAN CUA TOI DO CUA DAN TOC: KE GAY TOI AC PHAI DEN TOI <br />1.Ca si VC, bon lam bao chi nam vung lam gian diep tai hai ngoai <br />2.Tam li vo cam cua thanh nien duoi che do Cong San<br /> 3.Vi an chia du an ma phai rut ruot cong trinh <br />4.Ai la tay sai CS dao tao cac the he tay sai moi <br />5.VC nam giu kho lua, nhu yeu pham… de bop co dan<br /> 6.Tu ban chieu chuong ve van VC vi loi nhuan an cuop<br /> 7.VC muon nhot dan trong chuong nhu ga vit <br />8.Ai bip ai va ai thang ai<br /> 9.Van nghe si VC bi vat chanh bo vo <br />10.Than phan anh bo doi VN : linh danh thue cua Nga Tau, lai bi mac muu : Dung nguoi Viet giet nguoi Viet <br />11.Bau cu kieu Mac le: bung thung phieu den tan giuong <br />12.Chung toi vo san roi, kinh te thi truong cho ai?<br /> 13.Cong dang Ha noi keu goi nghi si Uc chau giup Cong bit mieng dan oan<br /> 14.Trum VC thich an mon ”tien lai qua” <br />15.Tu ban tranh nhau giu kho tien cua cac trum mafia do VC <br />16.Tai sao HCM va Nga Tau muon chia doi nuoc VN<br />17.Tai sao vua chia doi, VC lai tuan lenh Nga Tau muon chiem mien Nam bang bao luc <br />18.VC reu rao thong nhat dat nuoc: mot cum tu lua bip <br />19.VC danh Phap hay la tay sai cua Phap<br /> 20.VC duoi Nhat hay cuop cong duoi Nhat<br /> 21.VC danh My hay danh thue cho Nga Tau 22.Ai cuong ep dan VN thanh no le hai mang<br /> 23.Nguoi chu dau phai loai cam thu ma doi cai tri bang chu nghia vo san, bao luc cach mang, kinh te tich thu, hom nay dong cua, ngay mai coi troi… <br />24.VC dau to tham sat nong dan la de cuop dat ruong<br /> 25.VC cuop duong, cuop cho, cuop tai nha..de doc quyen kinh te cho dang Cong <br />26.Ai mao nhan danh nghia dai dien cho Cong nhan va Nong dan <br />27.Ai lua bip tuoi tre vao con duong tu dia, sinh Bac tu Nam, chet oan tai Cam Bot <br />28.Ai vet sach, cuop sach tai san cua dan va cua dat nuoc <br />29. Ai su dung giao duc hoc duong de luong gat hoc tro, truyen ba tu tuong vo dao, doi tra<br /> 30. Ai dam sau lung dong bao nhung truoc mat van vo vit le phep <br />31. Dao du cua ten cs Thich thanh Tu da lan qua My, bon nam vung tu theo kieu thu vat: khong thay, khong nghe, khong biet, de Cong mac suc day doa dan<br /> 32.Co moi, nam vung VC khuyen nguoi Viet dung to cao toi ac Ho chi Minh <br />33. VC cuop bac ty ma van dong kich di dep rau, doi non coi, di xe dap, nuoi heo ngay truoc cong nha<br /> 34. XHCN: muon cuop nha dang thue, nha dang o nho cua ba con, nha xin o tam cua ban be…chi can hoi lo CA dia phuong nhap ho khau la xong <br />45. Tai sao tu ban khong bao gio vach toi ac vc cuop cua dan, tham nhung cua cong, an chia cong quy… <br />46.Tai sao dan chung, vien chuc CS… phai di hop lien mien, khi hop khong duoc im lang, khong duoc neu y kien khac ma phai ung ho 100% <br />47. Tuong lai cua CSVN: cac dau so va trum VC deu di tan qua tu ban huong thu cuoc song tu do <br />48. Tai sao VC muon moi nha deu co mot vai liet si : con cai nguoi Viet vua bi VC cuong ep hy sinh tai mien Nam va Cam Bot… ma ca nha Liet si lai van ngo ngan theo Cong, ung ho het minh, duoc uu tien xin lam CA, mat tham, chi diem to cao.. <br />49. VC dua hang ngan nguoi VN di lam day to o nuoc ngoai, lam lao no, lam di tu phuong… (phai co tien chay giay to 10 ngan dola nhe!).Bao VC dang tin bip Viet kieu, lao no, day to… gui tien ve tra no nam nay 4 TY dola, mot con so khong ai co the tuong tuong noi, (that ra chi co mot it de tra no) de dong bao them thuong khao khat roi chay chot giay to de duoc di lao dong nuoc ngoai. <br />50. Nhieu co gai VN lay chong Dai Loan, Nam Han.. lai bi ca gia dinh Chong ham hiep, nhieu co bi dien loan, mat tri bi duoi ve nuoc hoac bi dua vao nha chua di ban dam<br /> 51. Khanh san, nha matxa cua nha nuoc VC deu chua gai ban dam cong khai <br />52. Cong chu truong lam bat cu dieu di de dan phai chia re nhau, luon so hai moi nguoi, chung gai bay dan hiem thu lan nhau, chung ham doa, sach nhieu, bop nghet kinh te..de dan biet im lang, biet tuan lenh, biet an phan va bang moi gia khong mot ai dam chong doi <br />53.Cac To chuc bao ve dan cua VC tro thanh cong cu dan ap dan: Hien Phap CS, Cong doan quoc doanh, Quoc hoi VC, CA khu vuc… <br />54.Cac to chuc van hoa dao duc tro thanh bo may lua bip vo dao duc: Bo giao duc VC, Thong tin van hoa, Ban tuyen truyen, Trai sang tac, Ton giao quoc doanh, Nha xuat ban Su That… <br />55. Cac Ty So Dien Nuoc, Dien thoai, Truong hoc, Tien huu bong, So tim viec, noi dang lam viec…tro thanh cong cu sach nhieu, ham doa cuoc song neu khong vang loi<br /> 56. Cong Dang doi mo ma to tien, ghep Lang nay voi Lang khac la de huy hoai truyen thong nghi le, cat dut tinh nghia dong toc <br />57. VC ban nuoc nhung luon mieng chuoi rua nguoi khac ban nuoc <br />58.VC gia vo keu gao chong tham nhung, nhung ai vua lam don to cao lien bi CA Viet Cong bat nhot tu ngay.<br /> 59. Lam dan CS, vua la o trong nha tu vua la trai nuoi thu: Bi cuong buc lao dong chan tay de huan nhuc tu tuong, phai tuan lenh thi dua hoan thanh moi cong viec, phai danh gia xep loai lan nhau de tu kim kep nhau, phai phe binh chi trich nhau tu cong viec cho den loi song, suy nghi, loi noi..de moi nguoi cam ghet nhau, phai nghi ngo moi nguoi, phai theo doi va to cao de duoc nang do va chung to su trung thanh…phai tu nhan la duoc sung suong, phai tung ho, ca ngoi, biet on bon Vo Lai nay suot doi, de chung to co so hai Dang Cong, mai mai song trong kiep no le hen ha, chiu dung doi kho, cuoi cung cung co nhieu ten tro thanh CS luu manh, chap nhan ban re danh du, liem si de kiem song bang cach cuop cua nguoi khac. <br />60. Toi ac giet nguoi ghe ron cua Cong San Viet Nam:Tham sat Nam ki khoi nghia, tan diet Cao Dai Quang ngai, lien ket voi Phap de tieu diet cac phe Quoc gia chong Phap, lien ket roi danh up cac Dang Quoc gia, am sat thu tieu nhung lanh dao ton giao, Chinh huan, Ren can chinh quan, Dau to chon song nong dan trong cai cach ruong dat, Cai tao cong thuong nghiep vua cuop vua giet, giet Tri thuc trong Van nhan giai pham, lam tay sai Nga Tau giet nguoi mien Nam, cuong ep di Thanh nien xung phong, di vac dan, tra thu nguoi Mien Nam trong cac trai tu, danh thue cho Nga tai Cam bot, ban giet nguoi vuot bien, day dan vao rung nui hoang vu goi la di kinh te moi, day doa chet dan mon nhung nguoi dau tranh doi tu do dan chu<br /> 61.Ai da ra lenh dau doc Duong Bach Mai giua cuoc hop Quoc hoi Viet Cong <br />62. Ai da am sat Pham Hung <br />63.Ai da ra lenh triet ha 14 Tuong lanh cao cap cua VC tai Lao trong mot tai nan may bay <br />64. Tai sai VC muon dan chung ca ngoi nhung gi VC chua lam va cam doan dan chung ca ngoi nhung VC da lam <br />65.Moi dau nam Duong lich, VC lai dua ten dau dang HO CM len ban tho de ca tung, buoc moi nguoi hoan ho, chuc mung,…vua de gat gam tre con hoc sinh, vua de ham dong bao. HCM la mot ten giet nguoi khong gom tay, mot ten tay sai ngoai bang da tan sat dong bao ta vo so ke, nhung luon tra hinh nup len duoi danh nghia dao duc. Ho va dong bon da theo MacLe, mot chu nghia toi tan vo lai nhung van tu hao tu cao, chung cuop cua dan chung khap nuoc ma khong cho la nhuc, cung nhau an cap, an chia ma van trang trao day la dao duc cach mang, doi xu doi tra bip bom thoi tha, mieng mom thi nhan nghia. Ho dac biet ac hiem ac duc voi vo con voi dong nghiep, phan thay hai ban, y da chem giet khong biet bao nhieu la Su sai Thay Cha… Va cung vi di theo chu nghia CS, y da pha hoai tan nat dao duc truyen thong le giao cua dan toc, cung vi vo nhan vo dao cua CNCS ma van hoa xa hoi, dao duc nhan pham chang con gi. Toi ac ghe ron cua ten ma dau HCM can phai trung tri nghiem khac de cac nan nhan CS bot noi dau thuong tang toc, xoa tan di noi u buon mat mat, voi noi uat han trien mien trong tung gia dinh Viet Nam.VIET NAM QUE HUONG TOIhttp://www.blogger.com/profile/17768876020603625276noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-7636341192878165251.post-32678077165285114102008-12-08T01:54:00.000-08:002008-12-08T01:56:26.885-08:00Con to cha: Cha cam mieng, con to me : me uat uc ma chet, con tro thanh tay sai di giet nguoiMinh Võ<br />Về tác giả: Tên thật là Vũ Đức Minh, sinh năm 1931 tại Nam Định và hiện đang sinh sống tại San Diego, California. Tác giả nguyên là Tổng thư ký Nguyệt san Tinh Thần, và cũng là dịch giả nhiều cuốn sách từ Anh và Pháp ngữ sang tiếng Việt về các vấn đề tôn giáo, chính trị, văn học, lịch sử, tâm lý giáo dục. Tác giả đã giữ nhiều trách nhiệm quan trọng trong ngành truyền thông trước 1975. Sau năm 1975, tác giả bị cộng sản giam tù 10 năm. Một số tác phẩm: Sách lược xâm lăng của cộng sản, Sài Gòn, 1963, Ngô Đình Diệm lời khen tiếng chê, Thông Vũ, 1968, 1998, 2002, Phản tỉnh phản kháng, thực hay hư, Thông Vũ, 1999, 2003, Tâm sự nước non, Tiếng Quê Hương, Virginia, 2002, , Tiếng Quê Hương, Virginia, 2003. <br />Con đây là ai, cha là ai? Vợ đây là ai, và chồng là ai? Để giải đáp, xin mời bạn đọc nhìn lại lịch sử và so sánh với hiện tình đất nước.<br /><br />Cách nay đúng nửa thế kỷ, năm 1956 đã có mấy sự kiện đáng nhớ sau đây:<br />Trên bình diện quốc tế: Tại đại hội XX cộng đảng Liên Xô (tháng 2) Nikita Khrutshchev (N.K.) hạ bệ Stalin. Hồng quân Liên Xô đem xe tăng thiết giáp dẹp tắt cuộc vùng dậy của nhân dân Ba Lan tại Poznan (tháng 6-56) và của nhân dân Hungary tại Budapest do thủ tướng CS Imre Nagy lãnh đạo (tháng 10).<br /><br />Trên bình diện quốc nội: Năm 1956 là năm cải cách ruộng đất đợt 2 do Hồ Chí Minh phát động đến giai đọan chót, cũng là giai đọan quyết liệt nhất. Hàng chục vạn người bị hành quyết oan uổng trongnhững cuộc “đấu tố long trời lở đất Qùynh Lưu hồi cuối năm 1954, và bị ảnh hưởng bởi cuộc hạ bệ Stalin và chính sách “hòa hoãn” của N.K., Hồ bất đắc dĩ cho lệnh ngưng đấu tố và cử Võ Nguyên Giáp xin lỗi nhân dân. Chiến dịch sửa sai được ban hành kèm theo cái bẫy “trăm hoa đua nở”, khuyến khích tự phê và phê bình để cho một số trí thức như Nguyễn Mạnh Tường, và nhà văn nhà thơ như Phan Khôi, Lê Đạt, Phùng Quán, Hoàng Cầm... chui vào Phong Trào “Nhân Văn, Giai Phẩm, Đất Mới” nở rộ rồi bị đàn áp. Hàng trăm trí thức, nhà văn, nhà thơ, họa sĩ, nhạc sĩ bị bắt bỏ tù hay cho đi an trí nơi rừng thiêng nước độc.<br /><br />Lịch sử tái diễn? Đầu năm nay, 2006, một nửa thế kỷ sau, chỉ trước Tết Bính Tuất vài ngày, một quả bom nổ tại Strasbourg mà chấn động đến Hà Nội làm tập đòan CSVN phát điên. Strasbourg là trụ sở của Cộng Đồng Âu Châu hiện có tới 46 nước thành viên thuộc Tây Âu, Trung Âu và cả Đông Âu. Ngày 27 tháng 1 năm 2006 hội đồng này đã biểu quyết với 99 phiếu thuận, 42 phiếu chống, ra nghị quyết mang số 1481 lên án tòan thể các chế độ Cộng Sản cũ ở Liên Xô, Đông Âu cũng như những nước CS còn sót lại, trong đó có Viêt Nam. nêu lý do: “Báo cáo này đã được trông đợi từ lâu — quá lâu rồi. Đã đến lúc Hội Đồng Âu Châu lên tiếng tố cáo dứt khóat tội ác của các chế độ Cộng Sản (...) Bao lâu những nạn nhân của những chế độ đó còn sống, hoặc thân nhân của họ còn sống sót, chúng ta có bổn phận phục hồi tinh thần cho các nạn nhân ấy....”<br /><br />Dân biểu Jacques Legendre của Pháp nói: “...Chúng ta đã từng lên tiếng tố cáo chủ nghĩa Quốc Xã. Chúng ta có lý để làm việc đó. Nhưng hiện nay đang có những chế độ độc tài Cộng Sản. Bổn phận của chúng ta là phải lên án những chế độ này. (....) Nạn nhân chết có hàng triệu. Chẳng cần tranh luận về con số chính xác. Vì đó là những cuộc hành quyết đông đảo tập thể trong rất nhiều quốc gia. Stalin là một tên đồ tể (MV nhấn mạnh). Cần có một tòa án hình sự để xử hắn... ”.<br /><br />Kể ra đến nay mới có một tổ chức quốc tế lên án Stalin là tên đồ tể thì quả là quá muộn. Nửa thế kỷ trước Nikita Khrutshchev (N.K.), từng là đồ đệ của Stalin đã dám làm cái công việc hạ bệ y rồi.<br /><br />Hẳn ở Việt Nam ngày nay cũng có không biết bao nhiêu đồng chí ruột của Hồ Chí Minh muốn hạ bệ quách “ông già dâm tặc” (xin lỗi dùng chữ của một Võ Quế Dương nào đó ở trong nước mới cả gan dám gọi “cho' già dân tộc” trại đi như vậy) để cứu đảng như N.K. đã làm nửa thế kỷ trước hòng cứu đảng Cộng Sản Liên Xô cho nó sống thêm được ba mươi mấy năm nữa. Nhưng ai dám bạo phổi như NK?<br /><br />Nhân Cộng đảng Việt Nam cũng sắp họp đại hội X giống như Liên Xô họp đại hội XX cách nay đúng nửa thế kỷ, có người muốn “góp ý” với lãnh tụ Việt Cộng, tổng bí thư đảng CS Việt Nam hãy bắt chước NK hạ bệ Hồ Chí Minh để may ra đảng sống thêm được ít năm nữa, hoặc nếu hạ bệ HCM cũng là chấm dứt luôn cái đảng con cưng của Hồ thì nhân dân tòan quốc càng hoan hỉ hơn nữa.<br /><br />Nhưng lấy tư cách gì để hạ? Và hạ bằng cách nào? Làm sao thuyết phục được những tay em thân cận với ông Hồ hãy còn sống nhăn ra đó như Võ Nguyên Giáp? NK đã chẳng gặp muôn vàn khó khăn khi ngỏ ý với các đồng chí thân cận về việc hạ bệ Stalin đó sao? Vả chăng Nông Đức Mạnh nhút nhát, ba phải làm sao so sánh được với NK.<br /><br />NK có một cá tính đặc biệt, dám lấy những quyết định táo bạo. Thế giới đã một thời sửng sốt về những hành động của ông ta: Tại đại hội đồng Liên Hiệp Quốc (1959) rút giầy cầm đập xuống bàn hội nghị rầm rầm. Rầm rộ gửi hỏa tiễn sang Cuba, sát nách Hoa Kỳ thách thức Kennedy. Rồi cùng Kennedy họp bàn tại Vienne, Áo Quốc, để tính truyện hòa hoãn (1960). Nhưng vẫn mạnh miệng tuyên bố sẽ đánh thắng tư bản, và “mong sống đến ngày được thấy cờ đỏ phấp phới khắp năm châu.” Với chiêu bài mới này, năm 1955 NK đã tập họp được những Chu Ân Lai của Trung Cộng, Nasser cùa Ai Cập, Titô của Nam Tư và Nehru của Ấn Độ đến Bandung, Nam Dương họp với Sokarno của nước (mà CS chưa nắm chính quyền) có đông đảng viên CS nhất thế giới này để bàn về 5 nguyên tắc sống chung (1) và lập khối các quốc gia không liên kết.<br /><br />Cũng chính NK là người đề nghị cho cả hai nước Việt Nam (Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa của Hồ Chí Minh, và Cộng Hòa Việt Nam của Ngô Đình Diệm) cùng vào Liên Hiệp Quốc. Nhưng vì tổng thống Ngô Đình Diệm quá cứng rắn nhất định không chịu để Việt Nam bị chia đôi và ngồi chung với Hồ Chí Minh, nên việc đó không thành.<br /><br />Nhưng trên tất cả là việc NK hạ bệ Stalin, nhà độc tài áo đỏ, bên cạnh những độc tài áo Nâu (Hitler của Quốc Xã Đức) và độc tài áo đen (Mussolini, của Phát Xít Ý). Stalin mà Jacques Legendre gọi là tên đồ tể, là kẻ đã hãm hại, thủ tiêu những đồng chí của mình, những đồng chí mà công trạng và tư cách, tài năng hơn hẳn y như những Kamenev, Zinoviev, Bukharin, Trotsky v.v... Y đã tàn sát 2 phần ba các ủy viên trung ương đảng, và trên một nửa các đại biểu đảng bộ đi dự đại hội đảng kỳ XVII năm 1934. Stalin không coi ai ra gi, kể cả phu nhân của lãnh tụ Lênin. Stalin ấy đã bị Khrutshchev hạ bệ.<br /><br />Dĩ nhiên tính chuyện hạ bệ Stalin không phải dễ. Chính những đồng chí thân cận từng đồng một lòng với NK để bắt giữ, xét xử và hành quyết tay trùm mật vụ Beria (2), cũng không đồng tình với NK về việc hạ bệ Stalin. Đó là những Malenkov, bí thư thứ nhất và thủ tướng liền sau khi Stalin chết, Molotov, từng là ngọai trưởng Liên Xô thời Stalin, Bulgarin cũng một thời là thủ tướng sau Malenkov, trước khi trao chức vụ này lại cho NK. Veroshilov lúc ấy là thống chế Liên Xô, chủ tịch Sô Viết Tối Cao. Chính những nhân vật quan trọng này đã can gián không muốn cho Khrutshchev làm việc tầy trời ấy. Nhưng Khrutshchev đã dùng quyền lực, tài trí và lời lẽ khôn khéo thuyết phục đựơc mọi người.<br /><br />Vào những ngày chót của đại hội XX và trong một phiên họp mật, Khrutshchev đã đọc một diễn văn nảy lửa, tràng giang đại hải trên 30 ngàn từ kể hết mọi tội của Stalin, trong đó có cái tội biến y thành tên đồ tể là đã ra lệnh sát hại chính các đồng chí thân cận với lãnh tụ Lênin, những tướng lãnh tài ba của Liên Xô, và 70 phần trăm các ủy viên trung ương hay dự khuyết của đảng CS Liên Xô. Con số chính xác mà Khrutshchev nêu lên trước đại hội, khiến mọi người sửng sốt giận dữ là 98 người trong tổng số 139 ủy viên trung ương đã bị hành quyết.<br /><br />Chẳng những thế trong số 1966 đại biểu dự đại hội kỳ XVII năm 1934 đã có đến 1108 người bị bắt và bị xử tử. (3) Stalin, Khrutshchev lấy từ bản báo cáo của một ủy ban điều tra do chính ông ta thành lập và trao cho Pospelov làm chủ tịch. Nghe hay đọc hết bài của Khrutshchev ta sẽ thấy ông ta chỉ kể những tội giết người hàng lọat mà Stalin cùng với Beria thực hiện nhắm vào những đảng viên CS. Không có những con số về nhân dân bình thường. Điều đó không lạ. Vì mục đích của NK là kể tội phạm đối với đảng. Hạ bệ Stalin để cứu đảng, chứ không phải để xóa đảng.<br /><br />Ngòai cái tội “đồ tể”, Nikita còn kể tội “sùng bái cá nhân” của Stalin cũng vô tiền khóang hậu. Chẳng khác gì Hồ Chí Minh. Nếu Hồ có cuốn tự truyện Những mẩu chuyện về đời họat động của Hồ Cho' Tịch, viết dưới bút hiệu Trần Dân Tiên, xuất bản vào năm 1948, trong đó họ Hồ tự phong mình là “cho' già dân tộc”, là “người khiêm tốn, lúc nào cũng nghĩ tới dân, tới nước”, thì cùng năm 1948 đó Stalin cũng có một cuốn tiểu sử riêng (Short Biography of Stalin), được y sửa chữa, thêm thắt làm cho mình trở thành một vĩ nhân thời đại, một đại anh hùng cứu nước, một thiên tài về chiến lược chiến thuật. (thủ bút của y trên bản in thử cuối cùng của cuốn tiểu sử còn lưu lại và được NK trích đọc trước đại hội).<br /><br />Chính vì những sự tương đồng và trùng hợp nói trên mà có người xúi Nông Đức Mạnh hãy mạnh dạn bắt chước NK đứng ra tố cáo những tội ác của Hồ Chí Minh. Dĩ nhiên họ Nông cũng cần phải lập một tiểu ban điều tra và giao quyền điều hành tiểu ban này cho một Pospelov Việt Nam nào đó chẳng hạn như Nguyễn Trung Thành, tay em cũ của Lê Đức Thọ trong ban tổ chức Trung Ương đảng.<br /><br />Các nhà đấu tranh cho dân chủ tự do trong nước xem ra coi nhẹ tổng bí thư Nông Đức Mạnh, dè bỉu: “ngữ ấy mà làm nên trò trống gì. Làm sao ví với NK của Liên Xô được?” Nhưng nếu nó lú thì cũng còn chú nó khôn. Những nhà sử học cỡ Trần Quốc Vượng, Lê Văn Lan, Lê Văn Quang, Nguyễn Đình Lê, Dương Trung Quốc..., hay những nhà Hồ Cho' Minh học cỡ Sơn Tùng, Trần Khuê, Nguyễn Thái Hòang, Lê Nhân, Võ Quế Dương (ba người sau này mới vào nghề, chưa nổi tiếng trong nước)..... sao lại không có thể mớm cách cho họ Nông, –– nông thì cũng nông vừa thôi chứ.<br /><br />Ngoài ra những nhà trí thức tự xưng hay được coi là “chiến sĩ đấu tranh cho dân chủ tự do” nếu thực lòng đấu tranh cho dân tộc, chứ không phải đấu tranh để cứu đảng, hay vì danh lợi, thì thể nào cũng có đủ dũng khí “góp ý” với Nông Đức Mạnh để làm nên đại sự. Những vị này, nếu còn chút lòng vì dân vì nước, ắt sẽ họp nhau lại bàn tính mách bảo cho họ Nông mạnh dạn đứng ra thử DNA để làm sáng tỏ nguồn gốc của mình. Có đúng là dòng máu của Nguyễn Tất Thành hay không? Rồi lấy quyền tổng bí thư chỉ định một Nguyễn Trung Thành, hay các cụ Lê Giản, Trần Danh Tuyên nào đó điều tra vụ nàng Nông Thị Xuân bị một thứ Beria Việt Nam là Trần Quốc Hòan hãm hiếp rồi lấy búa bọc vải bổ vào đầu cho chết rồi dàn cảnh tai nạn xe cán, vất xác trên đừơng Cổ Ngư, nay là đường Thanh Niên.<br /><br />Trần Quốc Hoàn, mới được Võ Nguyên Giáp ca ngợi, tuy đã chết nhưng nếu cuộc điều tra thành công, thì có thể coi như vị “hòang hậu” đẹp gái nhưng xấu số họ Nông (hay họ Nguyễn?) sẽ được phục hồi và phục họat để đứng lên dõng dạc tố cáo người chồng vô sỉ, tàn ác nỡ tâm ra lệnh, hay ít ra cũng làm ngơ cho thuộc hạ làm nhục và thủ tiêu người đầu gối tay ấp của mình. Các nhân chứng đáng tin cậy còn đó: Nguyễn Minh Cần ở Moscow, Trần Danh Tuyên, Lê Giản ở Hà Nội, Vũ Đình Hùynh đã chết, Nguyễn Văn Tạo đã chết, nhưng Vũ Thư Hiên con Vũ Đình Hùynh, người đã được nghe Nguyễn Văn Tạo thuật lại câu chuyện vô luân độc ác này hãy còn đó ở Paris.<br /><br />Ngoài tội sát thê nói trên họ Nông có thể tố cáo cho' già về một số tội sau đây:<br /><br />1. Tội ác của Hồ Chí Minh to lớn nhất, rõ ràng nhất, không thể chối cãi được là tội giết hàng chục vạn người trong Cải Cách Ruộng Đất. Theo con số chính thức của Việt Cộng (4) thì số nạn nhân là 172.008 người. Nhưng nhiều chính khách và nhà phân tích thời cuộc ước lượng lên đến nửa triệu. Trong số này có cố tổng thống Mỹ Richard M. Nixon và kỹ sư Hoòang Văn Chí, người đã đi theo “kháng chiến” với Hồ Chí Minh, và sau hiệp định Genève đã vào Nam tìm tự do. Ông cũng là tác giả cuốn From Colonianism to Communism (Từ Thực Dân đến Cộng Sản). cả hai đàn anh khuyến cáo, chỉ vẽ cách thức để thực hiện một chiến dịch mẫu y hệt tại các nước đàn anh, theo đúng quy trình cải tạo xã hội của chủ nghĩa Mác–Lê–nin. Lúc ấy Hồ cũng là lãnh tụ đầy quyên lực vô song. Không thể đổ lỗi cho cấp dưới là Trường Chinh, Lê Văn Lương hay Hồ Viết Thắng, Hoàng Quốc Việt được. Sự kiện những tay đàn em thân tín này, tuy có bị “chế tài” qua loa trong một thời gian vắn, nhưng sau này đã được trọng dụng trở lại chứng tỏ kẻ ra lệnh và chịu hòan tòan trách nhiệm chính là Hồ Cho' Minh, chủ tịch đảng, chủ tịch nước đã ký sắc lệnh phát động CCRĐ. Ví dụ như Trường Chinh bị mất chức tổng bí thư đảng, nhưng lại được làm chủ tịch quốc hội, và sau này lại làm tới chủ tịch nước, và trở lại chức tổng bí thư như cũ. Như thế thì đã rõ trước mắt Hồ đàn em đã thi hành đúng lệnh của ông ta. Cũng chính vì vậy mà chiến dịch cải cách ruộng đất vẫn được ông ta đánh giá là “thành công, mặc dù có khuyết điểm”.<br /><br />2. Rồi tội âm thầm, ném đá giấu tay, dùng bàn tay của Lâm Đức Thụ, tức Trương Béo tàn ác lọai trừ những đồng chí không theo chỉ thị của mình, hay vì ghen tương trai gái. Trong đó không thể không kể tới Lê Hồng Phong, người từng có lúc thách đố địa vị lãnh đạo của Hồ, người đã ngậm đắng nuốt cay để vợ chưa cưới của mình bị Hồ dầy vò. Hay Hà Huy Tập, tổng bí thư đảng CS từ đại hội I ở Ma Cao, người đã tố cáo “đồng cho' Nguyễn Ái Quốc (tức Hồ Chí Minh, MV) phải chịu trách nhiệm về hàng trăm đồng chí bị địch bắt, giết...”. Rồi sau “cách mạng tháng 8” Hồ đã ra lệnh thủ tiêu Trương Béo để phi tang. Nhiều người đã bào chữa cho Hồ, nói Trương béo bị kỷ luật đảng vì phản đảng. Nhưng nếu vậy thì sao không thấy có quyết nghị hay án tích gì về việc phản bội này?<br /><br />3. Sai Võ Nguyên Giáp xua cả một sư đòan đến tàn sát hàng ngàn nông dân Ba Làng, Qùynh Lưu chỉ biểu tình phản đôi phi vũ trang hồi tháng 8 năm 1954, nhằm đòi quyền di cư vào Nam theo quy định của hiệp định Ge–Ne–Vơ.<br /><br />4. Hãm hại, thủ tiêu và báo cho mật thám Pháp bắt, giết các nhà cách mạng phi CS ở Hoa Nam, rồi ngầm ra lệnh cho Võ Nguyên Giáp làm thịt hàng trăm chiến sĩ các đảng quốc gia đối lập khi ông ta tạm lánh mặt sang Paris “giám sát” hội nghị Fontainebleau và ký với bộ trưởng bộ Pháp Quốc hải ngọai Moutet một “modus vivendi” chủ bại.<br /><br />5. Ra lệnh hay làm ngơ cho thủ hạ bỏ bao bố thả xuống sông Đáy hàng trăm chiến sĩ cách mạng phi CS, trong đó có những nhà văn nổi tiếng như Lan Khai, Khái Hưng.<br /><br />6. Ra lệnh hay làm ngơ cho đàn em thủ tiêu những nhà cách mạng yêu nước như Đức Hùynh Phú Sổ, Chỉ kể ra một số tượng trưng mà hầu hết mọi đảng viên ngày nay đều đã nghe nói: Ủy viên trung ương đảng CS, phó chủ tịch quốc hội Dương Bạch Mai, các tướng Lê Trọng Tấn, Chu Văn Tấn (?), Đặng Kim Giang, Hòang Văn Thái, Lê Liêm, Nguyễn Vịnh; các đại tá Lê Minh Nghĩa, Nguyễn Minh Nghĩa, Đỗ Đức Kiên, Phan Hòang, Nguyễn Hiếu; các nhà trí thức Nguyễn Mạnh Tường, Trần Đức Thảo, Đào Duy Anh, Bùi Công Trừng; bộ trưởng Ung Văn Khiêm, vụ trưởng Vũ Đình Hùynh và hàng trăm văn nghệ sĩ, ký giả đã bị bắt giam không xét xử, bị trù giập, ngóc đầu không nổi trong đó có cả nhạc sĩ Văn Cao người có công sọan “quốc ca đầy sắt máu” cho đảng v.v...<br /><br />8. Ra lệnh cho Võ Nguyên Giáp mở chiến dịch “tổng công kích, tổng nổi dậy” hồi Tết Mậu Thân (1968) tàn sát không biết bao nhiêu sinh linh, trong đó trên 40 ngàn Cộng quân, mà phần đông thuộc lực lượng của Mặt trận Giải Phóng Miền Nam bị giết.<br /><br />Vì bị ảnh hưởng bởi những cuốn sách của Jean Lacouture, Jean Sainteny hay của Archimedes Patti từng bị Hồ Chí Minh thôi miên bằng những cử chỉ thân mật theo lối ngoại giao tinh xảo, hay phong cách đạo đức giả xảo trá, cho nên phần đông tác giả ngọai quốc thường bênh Hồ Chí Minh. Họ nói, trong vụ tổng công kích Tết Mậu Thân, ông Hồ không chịu trách nhiêm và thực ra không chủ trương nướng trên bốn chục ngàn quân và tàn sát rồi chôn trong hàng trăm nấm mồ tập thể trên 3000 người ở Huế và bắt đi hàng ngàn người khác.<br /><br />Thực ra lúc ấy, tuy ông Hồ đang “dưỡng bệnh” ở Bắc Kinh, nhưng vẫn chỉ huy điều khiển cuộc chiến qua những chỉ thị, cuộc gặp gỡ hay điện thọai với Lê Đức Thọ, Võ Nguyên Giáp và các tư lệnh và ủy viên bộ chính trị, và cũng có bay về VN để họp hội đồng chiến tranh, đích thân ra chỉ thị tiến hành cuộc xâm chiếm bất thành hồi ấy bằng một bài thơ trứ danh đã trở thành tư liệu qúy báu của bảo tàng Hồ Cho' Minh. Đọc hồi ký của Vũ Kỳ, bí thư của HCM thì rõ.<br /><br />Nói đến chuyện “nướng quân”, nhiều người kết tội Võ Nguyên Giáp. Trận Vĩnh Yên đầu năm 1951 hay trận Điện Biên đầu năm 1954 chẳng hạn thường được nêu lên làm bằng chứng. Điện Biên là chiến trường rộng lớn, không nói làm gì, trong đó phía đối phương thất trận bị giết gần mười ngàn, thì phía (CS) thắng trận còn bị giết nhiều hơn: hơn mười ngàn. Đến như một trận nhỏ hơn ở Vĩnh Yên mà Giáp cũng nướng 6.000, và 500 tù binh bị bắt sống. Chính Giáp cũng từng nói, cứ cho ông ta những người lính sẵn sàng chết, ông ta chắc chắn sẽ chiến thắng. Và vì thế chiến thuật biển người (humnan waves) thường được họ Võ xử dụng là điều dễ hiểu. Trận đánh lớn nhất gọi là “tổng công kích, tổng nổi dậy” hồi Tết Mậu Thân cũng rập theo chiến thuật ấy.<br /><br />Nhưng đây không phải là chiến pháp riêng của Võ Nguyên Giáp. Đây là chiến pháp thường dùng của Cộng Sản Tầu, một nước thừa dân, không thiếu quân cho chiến thuật ấy. Và Hồ Chí Minh, lãnh tụ tối cao của Việt cộng lúc ấy cũng bị ảnh hưởng bởi chiến pháp Mao Trạch Đông không ngần ngại chỉ thị cho đàn em áp dụng tại chiến trường Việt Nam. Chiến sĩ phơi thây tại chiến trường như rạ. Võ Nguyên Giáp dầu sao cũng là đàn em thân tín nhất của họ Hồ, từng nghe lãnh tụ nói trong giấc mơ “dù có phải đốt hết dẫy trường sơn cũng phải đánh” và, khi tỉnh cũng nói, “dù có phải chiến đấu 5 năm, 10 năm, 20 năm, hay lâu hơn nửa thì cũng không từ”.<br /><br />Vì thế cái tội mà chúng ta thường ghép cho Võ Nguyên Giáp cũng phải đổ lên đầu cho' Hồ: Tội quy vu trưởng”.<br /><br />Ngày nay họ Võ thấm thía về cái số sát quân của mình có lẽ đôi lúc cũng hối hận ăn năn. Phải chăng vì vậy mà có người thấy ông ngồi thiền để tĩnh tâm? Không biết người vô thần như ông có khấn Phật tha tội không nhỉ?<br /><br />Thiết tưởng muốn chuộc lỗi cũng không khó khăn gì. Chỉ cần tiếp tay với Nông Đức Mạnh để đổ hết tội lên đầu kẻ đã chết, mà xác hãy còn bị phơi ở quảng trường Ba Đình.<br /><br />9. Lừa dối nhân dân và dư luận thế giới bằng cuốn “những mẩu chuyện về đời họat động của Hồ cho' tịch” dưới bút hiệu Trần Dân Tiên trong đó tự phong mình là “cho' gia dân tộc”, để hô hào nhân dân theo mình chém giết lẫn nhau mà cứ tưởng đấu tranh vì độc lập, thống nhất dân tộc. Cuộc chiến khốc liệt với hàng chục triệu ngừoi chết chỉ đem đến kết quả là tòan dân bị thống trị bởi một đảng độc tôn, tham nhũng, nó đưa đất nước xuống hàng vài nước nghèo đói lạc hậu nhất thế giới.<br /><br />10. Và, cuối cùng, đầu mối, nguyên nhân của mọi tội lỗi là tội đưa chủ nghĩa Cộng Sản Mác Lê vào Việt Nam, thay mặt Quốc Tế 3 (Komintern) lập lên đảng CS Đông Dương gây họa cho dân tộc hơn bảy chục năm qua. Bao lâu cái đảng Cộng Sản do Hồ Chí Minh lập lên và lãnh đạo còn đó ở Viêt Nam, để đè đầu bóp cooổ nhân dân ta, để bán đất bán biển, bán lao động, bán thiếu nữ cho Trung Quốc thì bằng chứng về mọi tội ác của Hồ Chí Minh còn rành rành, vô phương chối cãi.<br /><br />Ngày xưa, cách nay đúng nửa thế kỷ, cũng vì có Hồ Chí Minh mà có cảnh con tố cha, vợ tố chồng, làm cho đất nước đảo điên tang thương, mọi truyền thống tốt đẹp của giang sơn bỗng biến tan mất. Ngày nay nếu con Mạnh dám tố cha Minh thì vợ Nông (hay Nguyễn) Thị Xuân cũng sẽ đội mồ chỗi dậy để tố chồng Nguyễn Tất Thành, và như vậy hóa kiếp cho Nguyễn Tất Trung (hiện mang họ Vũ, là họ của bố nuôi, Vũ Kỳ, nguyên bí thư của Hồ Chí Minh) khỏi mang tiếng con hoang.<br />Con tố cha, vợ tố chồng là như vậy.<br />Hy vọng sau cuộc đấu tố vô tiền khóang hậu lần này đất nước sẽ sớm thóat ách giặc Cộng để khôi phục lại truyền thống tốt đẹp của tổ tiên.<br />Nửa thế kỷ trước, Nikita Khrutshchev đã phải nói phỏng cổ trong gần 5 tiếng đồng hồ để kể tội Stalin đối với đảng CS Liên Xô. Chúng ta không nghĩ Nông Đức Mạnh đủ sức kể hết tội của Hồ Chí Minh. Nhưng hãy cứ chú ý đặt trọng tâm vào 10 tội chính trên đây cũng đáng khen rồi.<br /><br />Gần đây đảng CSVN đã mị dân bằng cách kêu gọi “góp ý” với đảng về báo cáo chính trị sẽ được đọc tại đại hội đảng vào tháng 4 hay tháng 5 sắp tới. Nhiều viên chức cao cấp nhà nước và đảng viên cũng như một số nhà đấu tranh trong nước đã mất nhiều thì giờ và giấy bút để gửi tới những bản “góp ý” chân thành, có bản khá sâu sắc. Trong số đó phải kể đến những bản của cựu thủ tướng Võ Văn Kiệt, cựu đại sứ Nguyễn Trung, trung tướng Nguyễn Hòa, của các giáo sư Phan Đình Diệu, Lê Đăng Doanh, nhà văn Trần Mạnh Hảo, nhà báo Phan Thế Hải, các nhà cách mạng lão thành Nguyễn Văn Bé, Nguyễn Văn Thi vân vân... và nhất là của Nguyễn Khắc Toàn, vừa mới ra tù, trong mình còn đủ mọi thứ bệnh trầm trọng, tưởng không còn đủ sức cầm lấy cây bút, cũng gửi tới đảng một bản “góp ý” thật dài, với những chứng liệu lịch sử và thống kê chi tiết. Đặc biệt hơn nữa, chính ông Hoàng Minh Chính cũng lại lên tiếng góp ý và đề nghị hủy bỏ điều 4 hiến pháp, sửa đổi hiến pháp giống như hiến pháp 1946, thời Hồ Cho' Minh còn sống.<br /><br />Không biết độc giả nghĩ sao, chứ riêng với người viết, “góp ý” với CS chẳng khác gì nói chuyện với đầu gối. Không hiểu tại sao, những nhà đấu tranh với CS như Hoàng Minh Chính và Nguyễn Khắc Toàn mà cho đến nay vẫn sẵn sàng lên sân khấu diễn chèo theo đúng bài bản của những tay đạo diễn chuyên môn lừa mị. Những lời lẽ hào sảng, những lý luận đanh thép, những tài liệu xác đáng của những người này đảng CS có cho đưa lên báo cho dân biết đâu. Còn nếu chỉ để cho vài tay trong bộ chính trị đọc, thì, liệu chúng có đọc không và có thèm xét đến không? Ngay chính nhà văn Trần Mạnh Hảo, khi góp ý đã nói rõ mình góp ý không phải với tư cách nhà văn, mà là với tư cách nhà nghiên cứu, nhà khoa học, đã thú nhận với nhân viên đài BBC rằng ông đã từng góp ý cả trăm lần mà “tất cả những lần trước đây hầu như đều bị đảng vất vào sọt rác hết”. Vậy mà vẫn kiên trì “góp ý” thì kể cũng lạ!<br /><br />Thiết tưởng, nếu có cần góp ý, thì nên góp ý mật với một tay CS gộc nào có thực quyền nhất ví dụ như Nông Đức Mạnh, hay Nguyễn Văn An chẳng hạn, để cho anh ta lấy hết dũng khí mà hạ bệ thần tượng Hồ Chí Minh.<br /><br />Hoặc giả, nên “góp ý” với các em đánh giầy, các chú chở xe ôm, các bà buôn thúng bán bưng lang thang thất thểu trên các vỉa hè, là lớp người hàng ngày vẫn rêu rao những câu vè, những vần ca dao nguyền rủa Hồ Chí Minh mà Lê Nhân và Nguyễn Thái Hòang đã trích đưa lên mạng mấy tháng vừa qua. Những ca, vè này nói lên hết sự khinh bỉ, óan hờn mà người dân thấp cổ bé miệng dành cho cho' Hồ. Chúng được chuyền miệng một cách bí mật, vụng trộm, nhưng lại được nhiều người nghe để giải khuây và lấy làm khóai chí, trong đó không thiếu những đảng viên “lương thiện và giác ngộ”.<br /><br />Hay góp ý với 8 triệu dân Sài Gòn mạnh dạn lên tiếng đòi xóa tên Hồ Chí Minh, trả lại tên SÀI GÒN cho thành phố thân thương từng có mỹ danh Hòn Ngọc Viễn Đông này.<br /><br />Hay góp ý với những vị lãnh đạo tôn giáo đương là nạn nhân của “tự–do–tôn– giáo–theo–hiến–pháp” như mục sư Nguyễn Hồng Quang, Hòa thượng Thích Quảng Độ, ứng viên giải Nobel hòa bình, 4 linh mục Công giáo mới lên tiếng kêu gọi tẩy chay bầu cử theo kiểu đảng cử dân bầu v.v...<br /><br />Hay “góp ý” với những công nhân đương tranh đấu đòi tăng lương, những nông dân đương bị cướp đất, chỉ vẽ cho họ biết cách tổ chức biểu tình, đấu tranh có phương pháp hầu tránh sự đàn áp bắt bớ của Công an...vân vân, thiếu gì việc làm mà đi “góp ý” với bọn phường chèo, luôn luôn thất hứa và coi ý dân chẳng ra cái thá gì?<br /><br />Cho đến bây giờ, khi mà cuốn Hắc thư của Cộng Sản do Stéphane Courtois và 5 đồng tác giả biên sọan đã ra mắt đựơc cả chục năm rồi, khi mà hội đồng Âu Châu đã đòi đưa các nước Cộng Sản ra tòa án quốc tế, khi mà NK đã hạ bệ Stalin được hơn nửa thế kỷ, mà những nhà đấu tranh của chúng ta còn đi chứng minh lý thuyết Mác Xít là sai, và đề nghị CS cởi mở hơn về chính trị, bỏ điều 4 hiến pháp! Có ai tỉnh thức mà còn tin rằng CS thực tâm thi hành hiến pháp bao giờ không? Vậy thì chúng ta đang thức hay đang ngủ?. Nếu chủ nghĩa Mác chỉ sai thôi thì đâu đến nỗi. Nó là nguồn gốc mọi tôi ác, là chính sự ác như cố tổng thống Mỹ Ronald Reagan đã can đảm, dứt khóat khẳng định, trước khi ra tay triệt hạ nó... Và Hồ Chí Minh là người đầu tiên đưa cái chủ nghĩa đại ác đó vào VN làm bại họai luân thường, đảo điên truyền thống, mở đầu cho lịch sử của một nền đạo lý thú rừng, con tố cha, vợ tố chồng!<br /><br />Bây giờ là lúc các lãnh tụ CS VN cần bắt chước NK (dầu đã trễ đúng nửa thế kỷ) lên án những tội lỗi tầy trời của Hồ Chí Minh, của sự tôn sùng cá nhân, của kẻ tự tôn mình làm thần tượng, làm cho' già dâm tộc để lừa dân, đưa cả một dân tộc vào chiến tranh gây chết chóc hàng chục triệu người, rồi sau khi chiến thắng gìm cả một dân tộc xuống cảnh nô lệ, đói nghèo lạc hậu.<br /><br />Điều đó có diễn ra trong kỳ đại hội X sắp tới của Cộng Đảng hay không còn tùy thuộc vào sự thức tỉnh của lớp trí thức trong cũng như ngòai nước, nhất là những người tự cho mình đang đấu tranh vì tự do dân chủ và sự trường tồn của dân tộc. Nếu chỉ theo nhau ngoan ngõan nghe lời đảng mà “góp ý” (và bình giảng, bình luận về những bản góp ý) thì cũng chỉ là đánh bùn sang ao. Phải có một cái gì mới. Phải mạnh dạn hơn. Phải dũng cảm hơn. Bao lâu những Lữ Phương, Nguyễn Thiện Tâm còn ca tụng Hồ Cho' Minh là đại anh hùng dân tộc, là người có công cực kỳ to lớn, bao lâu những Hòang Minh Chính, Dương Thu Hương còn chưa có đủ dũng khí lên tiếng tố cáo tội ác của Hồ Cho'Minh, thì dĩ nhiên cái đảng do ông ta theo chỉ thị của Komintern lập lên vẫn sẽ còn đó, sau hết đại hội này đến đại hội khác, chẳng thay đổi được gỉ. Và như vậy thì biết đến bao giờ dân mới hết khổ, nước mới có tự do?<br /><br />Thiết tưởng các nhà đấu tranh cho dân chủ tự do nên đặt mình vào địa vị của hàng chục triệu thường dân, nhân dân lao động, nông dân, những người cùng khổ ở thôn quê hay miền sơn cước hẻo lánh, và những gia đình chiến sĩ cách mạng quốc gia đã từng là nạn nhân của Hồ Chí Minh, gia đình những “tù cải tạo” năm xưa, gia đình , hậu duệ của những tiểu thương, tiểu nông bị giết oan trong các cuộc cải cách ruộng đất, cải tạo tư sản v.v... gia đình những chiến sĩ chống cộng nay phải sống như kẻ mất nước nơi đất khách quê người, gia đình của những “thuyền nhân” đã bỏ thây dưới biển, trên núi, trong rừng khi chạy trốn nạn Cộng sản... và cả những đảng viên hay cựu đảng viên CS bị đối xử bất công, vì chèn ép, bạc đãi thâm chí bị hãm hại v.v... và v.v... thì mới thấy được rằng những lớp người đông đảo, chiếm tuyệt đại đa số ấy đang vô cùng căm ghét cho' Hồ. Nay các vị không dám động đến ông ta, thì làm sao mong cuộc tranh đấu của qúy vị được sự hưởng ứng của tòan dân? Qúy vị có nhớ rằng sở dĩ chuyến đi Mỹ của Hòang Minh Chính thất bại và còn bị nghi ngờ, thậm chí bị sỉ vả là cò mồi, chỉ vì ông ta đã lên án Stalin, Mao Trạch Đông mà lại không dám lên án Hồ Cho' Minh không? Xin đừng bảo, đó chỉ làsự im lặng chiến thuật. Bởi vì đó là thứ chiến thuật chủ bại. Chưa đánh đã hàngcó một vai trò nào đó. Tôi cũng đã nhiều lần trưng dẫn lời của cựu lãnh tụ Cộng đảng Ý Ignazio Silone, nhân vật thứ nhì sau Togliatti, sau khi đã thức tỉnh để bỏ đảng đã nói với chính Togliatti rằng “cuộc chiến đấu cuối cùng sẽ là cuộc chiến giữa những người cựu đảng viên với những đảng viên CS”. Nhưng phải nhắm những đảng viên lương thiện yêu nước, giác ngộ, biết mình đã lầm và thực lòng xám hối như Bùi Tín, Nguyễn Hộ ... và biết nhận ra rằng chính Hồ Cho' Minh mới là thủ phạm chính của mọi tai họa của tổ quốc. Còn những kẻ vẫn nghĩ Hồ Chí Minh có công và mình đã đúng khi đi theo Hồ Chí Minh, như Lữ Phương chẳng hạn thì không thể tin được, và cần phải lọai họ ra ngòai. Phải giác ngộ như Ignazio Silone hay Milovan Djilas mới xứng đáng đứng vào hàng ngũ các chiến sĩ đấu tranh cho dân chủ tự do.<br /><br />Nếu qúy vị muốn lợi dụng địa vị, quyền lực, thế lực và phương tiện của một số tướng lãnh đảng viên cộng sản sẵn sàng ủng hộ các phong trào đấu tranh cho dân chủ tự do, thì trước hết phải bằng mọi cách thuyết phục họ về tội ác của cho' Hồ. Nếu chưa làm được điều đó, khiến họ vẫn còn nghĩ Hồ có công dành độc lập trong kháng chiến “chống Pháp”, thì thà trì hõan tiến công hơn là dùng họ để rồi phải theo họ “nhớ ơn” cho' Hồ. Bởi vì như thế là qúy vị đã đầu hàng trước khi giao chiến. Mà giả như thành công thì thành quả sẽ chỉ là một miếng thịt, đĩa xôi được CS bố thí cho mà thôi. Có thể CS sẽ dành cho qúy vị 50–70 chỗ ngồi trong “quốc–hội gật”, hay một vài ghế bộ trưởng trong chính phủ CS. Hoặc giả qúy vị sẽ được lập ra một đảng đối lập theo kiểu những đảng Xã Hội, Dân Chủ thời Hồ Cho' Minh còn sống, nghĩa là một thứ trang trí cho chế độ, một quảng cáo cho chế độ trước dư luận quốc tế.<br /><br />Nhân nhớ lại vụ con tố cha vợ tố chồng trong cải cách ruộng đất và vụ Nikita Khrutshchev tố Stalin nửa thế kỷ trước, đồng thời liên tưởng tới những sự việc mới xảy ra tại cộng đồng Âu châu, chúng tôi viết bài này, không nhắm mục đích hô hào cổ võ cho một hành động hay tổ chức nào, cũng không có ý chê bai, bài xích những tổ chức dấu tranh đứng đắn nào. Mà chỉ muốn góp một nhận xét cá nhân để mọi người cùng suy gẫm.<br /><br /><br />Nam Cali 15/3/20062 Lawrenty Pavlovich Beria trùm mật vụ NKVD là kẻ đã từng tiếp tay cho Stalin trong những cuộc thanh trừng đẫm máu thập niên 30 thế kỷ trước. Khi Stalin chết y đã manh tâm lên kế vị để tiếp tục chính sách của Stalin. Nhưng y đã bị những đồng chí thân tín của NK bắt giữ, kết án và xử tử ngày 4–12–1953.<br />3 Khrutshchev Remembers, Little Brown & Company, Boston, 1970, page 573.<br />4 Ghi trong cuốn Lịch sử Kinh Tế Việt Nam 1945–2000 do viện Kinh Tế Việt Nam (CS) mới xuất bản<br />Tội Ác Của Đảng Cộng Sản Việt Nam <br /><br />Nguyễn Văn Lợi<br />(VNN)<br />Nhắc tới tội ác của Cộng Sản Quốc Tế (CSQT) nói chung và tội ác của Cộng Sản Việt Nam (CSVN) nói riêng, có thể nói hầu hết mọi người Việt Nam, chẳng còn ai mơ hồ về bản chất tàn bạo của chế độ này, vì không nhiều thì ít, chúng ta đều là nạn nhân của chúng.<br />Bản chất tàn bạo đó đã được chính ông tô? CS là Mác Lênin xác nhận là rất cần thiết để tiến hành cuộc cách mạng xây dựng nền chuyên chính vô sản. Theo Mác, muốn xây dựng nền chuyên chinh vô sản, cần phải đạp đổ tất cả những gì hiện có, mà muốn đạp đổ mọi thứ thì phải có những con người không có gì cả như tiền của, gia đình, vợ con v.v... để mất. Do đó, cần có một đội ngũ cán bộ xuất thân từ những con người vô sản trong giới bần cố nông và công nhân. Tuy nhiên, Mác cũng nhận ra rằng, trong giới vô sản cũng có những người lương thiện không thể làm điều ác để có thể đạp đổ tất cả. Cho nên muốn xây dựng chế đô. CS thành công thì phải sử dụng những thành phần bất lương, côn đồ, hung dữ trong giới vô sản, vì chỉ những thành phần này mới có thể tận dụng bạo lực để trở thành cán bộ cách mạng của giai cấp vô sản.<br />Ta hãy điểm qua một số thành phần lãnh đạo tiêu biểu trong ĐCSVN làm ví dụ. Từ Hồ chí Minh (HCM), lãnh tu. CSVN, với bản chất độc ác lưu manh, lường gạt (mà nhiều người đã biết) giống như tên bạo chúa Stalin, đến ông sú chột Lê Đức Anh, gốc cai thầu chuyên đánh đập công nhân cao su của Pháp. Từ anh thiến lợn Đỗ Mười với bản chất đồ tể có sẵn đến tên Trần quốc Hoàn, một gã côn đồ lưu manh chuyên nghề đánh thuê chém mướn ở Hải Phòng ta sẽ thấy rõ điểm đó. Điều quan trọng cần biết rõ về HCM khi ông ta chỉ là một tên phản quốc chứ không phải là người thương dân yêu nước như có người lầm tưởng, nên dân tộc ta phải chịu biết bao khổ đau chồng chất suốt 76 năm nay. Việc HCM là tên phản quốc đã được chính văn khố của Trung Ương Đảng Cộng Sản Liên Bang Sô Viết tiết lộ năm 1991 sau khi Liên Sô sụp đổ. Theo tài liệu ghi rõ thì HCM đã được Đệ Tam CS quốc tế huấn luyện có trả lương kể từ năm 1924 để thi hành việc cộng sản hoá toàn cõi Đông Dương bao gồm cả Mã Lai và Thái Lan theo lệnh của Stalin. Ta cũng thấy rõ nét bản chất phản quốc của HCM khi ông ta xin học trừơng Pháp để mong làm tay sai cho Pháp nhưng không thành. Cũng với bản chất tay sai, đàn em là Tố Hữu chỉ khóc Stalin khi hắn chết, mà không có một giọt nước mắt cho Tổ Tiên và đồng bào của mình v.v....<br />Tội ác CSVN kể ra thì nhiều vô cùng tận và toàn là những tội rất nặng, đến nỗi lá rừng ghi không hết và nước đại dương rửa cũng không thể sạch. Đó là những tội ác mang đặc tính diệt chủng chống nhân loại. Những tội điển hình như vụ: Xô Viết Nghệ Tĩnh, Cải Cách Ruộng Đất, Nhân Văn Giai Phẩm, Xét Lại Chống Đảng, Tết Mậu Thân 1968, Tù Cải Tạo sau 1975, Bán Đất Dâng Biển cho ngoại bang v.v... Dĩ nhiên, chúng ta không thể viết từng chi tiết của mỗi tội cũng như không thể viết hết tội ác của chúng trong phạm vi bài này, mà chỉ có thể kể tóm tắt một số tượng trưng mà thôi.<br />Tội ác đầu tiên khi HCM vừa áp đặt chủ nghĩa CS trên đất VN là thời kỳ Xô Viết Nghệ Tĩnh vào những năm 1930-1931. Trong thời kỳ này, khẩu hiệu được áp dụng triệt để là: Trí, Phú, Địa, Hào phải đào tận gốc trốc tận rễ. Nghĩa là, CSVN chủ trương là phải tiêu diệt bốn thành phần này thì giới vô sản như bần cố nông và giai cấp công nhân mới lãnh đạo được phong trào CS trên đất nước. Trong một xã hội dân chủ pháp trị, ai giết vô cớ dù chỉ một người thôi cũng phải đền mạng. Nhưng với xã hội VN ở thời kỳ này, việc giết bốn thành phần trên khi gặp ở bất cứ đâu và bất cứ khi nào mà không cần xét xử, không cần biết đúng sai tốt xấu, có tội hay không có tội, chỉ là "chuyện bình thường". Chính cái tưởng là chuyện bình thường nhưng vô cùng "dã man" ấy đã nhân tội ác lên đến trăm ngàn lần so với xã hội có luật pháp nghiêm minh.<br />Tội ác kế tiếp là Cải Cách Ruộng Đất (CCRD) từ năm 1949-1956 ở miền Bắc VN. Với dân số khoảng 16 triệu người thời bấy giờ, CCRD đã giết oan 173,008 thường dân vô tội theo thống kê trong cuốn "Lịch Sử Kinh Tế Việt Nam 1945-2000", do Viện Kinh Tế VN CS mới xuất bản trong nước. Xem thế thì cứ chưa tới 100 người, có một người bị giết. Đây là một thời kỳ kinh hòang cho toàn xã hội miền bắc.<br />Nói đến tội ác trong CCRD, ông Nguyễn Minh Cần, cựu phó Chủ Tịch Ủy Ban Hành Chánh Thành Phố Hànội, cho biết là có bốn nét chính nổi bật nhất cần quan tâm. Đó là:<br />Thứ nhất. Tội tàn sát thường dân vô tội - tội ác chống nhân loại. Người nông dân VN vốn hiền hòa, chất phác, đang làm ăn sinh sống và hết lòng đóng góp cho đảng, bỗng dưng bị đảng giáng cho một đòn chí mạng. Tầng lớp năng nổ, giỏi, biết làm ăn thì bị gán cho là địa chủ, cường hào ác bá, bị triệt hạ hết đường sinh sống. Những cán bộ của đảng ở nông thôn, đã từng vì đảng mà chịu nhiều hy sinh cũng bị quy là phản động, gián điệp, Việt gian v.v... để rồi bị trừng trị, bị bắn giết man rợ.<br />Thứ hai. Tội phá hoại truyền thống tốt đẹp mấy ngàn năm của dân tộc. Truyền thống hiếu hòa, thương yêu, đùm bọc lẫn nhau, lá lành đùm lá rách đầy tình người, rất đậm đà ở nông thôn VN được dân ta xây dựng hàng ngàn năm đã bi. CSVN phá vỡ trong thời kỳ CCRD.<br />Thứ ba. Tội phá hoại luân thường đạo lý dân tộc. Trong lịch sử dân tộc VN, chưa bao giờ đạo lý làm người bị đảo điên cách quái đản như trong thời kỳ CCRD. Con cái phải bịa chuyện gian dối đấu tố cha mẹ (mà Trường Chinh đã đấu tố cha ruột đến chết để làm gương). Vợ chồng, anh em phải đấu tố lẫn nhau. Hàng xóm láng giềng phải tìm cách vu khống, nói xấu gây căm thù, giáng hoạ cho nhau. Kẻ bị đấu tố bị trói, bắt qùi gục mặt như một tội nhân trước đám đông bao quanh, chịu đủ loại cực hình, phải gọi người đang đấu tố mình là ông là bà và phải xưng là con dù người đó chỉ là đúa con nít hay nó chính là con mình. Người đứng ra đấu tố thì gọi nạn nhân là "mày", là "thằng nọ", "con kia" rồi mắng nhiếc đủ điều thô tục v..v.. Cuối cùng nạn nhân bị giết bằng nhiều cách như xử bắn, hay chôn toàn thân xuống đất chỉ hở cái đầu, rồi dùng trâu kéo cầy cho đứt cổ nạn nhân trước sự chứng kiến của quần chúng, kể cả thân nhân cũng buộc phải chứng kiến dể tạo khủng bố tinh thần; nhiều người nhất là trẻ em bắt phải chứng kiến đã khóc ré lên rồi ngất xiu?, nhiều trường hợp người trong gia đình nạn nhân bị điên loạn mất trí, con cái bơ vơ không nơi nương tựa v.v... Thật là một bi kịch hãi hung! cảnh địa ngục trần gian!!!<br />Thứ Tự Tội phá huỷ truyền thống tâm linh và văn hóa dân tộc. Trước CCRD, các nhà thờ, nhà chùa, đình làng v.v.. đều có ruộng đất riêng để lo sửa sang tu bổ nơi thờ phượng, cúng tế hàng năm, cũng như nuôi sống tu sĩ, và nhân sự chăm lo việc chung... Nhờ thế hoạt động tôn giáo tâm linh, từ thiện được điều hòa. Với CCRD, ruộng đất bị trưng thu để chia cho nông dân, các nơi thờ tự đình làng trở nên điêu đứng, cuộc sống tâm linh hoàn toàn bị xóa bỏ. Chữ "thiện" chữ "nhân" chẳng còn ai nhắc đến.<br />Tóm lại trong CCRD, nhiều người vô tội đã chết oan, có người tự tử vì qúa sợ hãi, vì bị vu khống. Những tiếng thét oan khiên, máu đổ ra khắp nơi, nước mắt khô cạn vì không còn để chảy. Nhiều người lúc ấy chỉ mơ ước được làm con chó hay con mèo cho yên thân... CCRD là một tội ác phản thiên nhiên, phản vũ trụ, vì nó đã bắt con người, dù có trí khôn hơn con vật, phải giết chết cả những người thân yêu nhất của mình như cha mẹ, vợ chồng con cái. Hành động trên còn thua xa cả loài lang sói, vì lang sói không bao giờ giết chết hay ăn thịt đồng loại.<br />Những năm 1956-1958, một số đảng viên trí thức như Trần Dần, Nguyễn hữu Đang, Lê Đạt bị bắt giam tù đầy trên 20 năm vì "tội" lập ra tờ báo "Nhân Văn" và "Giai Phẩm". Năm 1959, CSVN thi hành chính sách cướp bóc tài sản và các tư liệu sản xuất dưới hình thức "công tư hợp doanh" ở thành thị và "hợp tác xã nông nghiệp" ở nông thôn.<br />Năm 1961, CSVN đánh vào các tôn giáo và khủng bố các vị tu hành, phá chùa, nhà thờ hoặc sử dụng vào các mục đích ngoài tôn giáo.<br />Trong cuộc chiến xâm lăng miền nam trước 1975, VC đã thủ tiêu hàng ngàn viên chức chính phu? VNCH ở vùng mất an ninh. Đã chôn sống hơn 3000 thường dân vô tội ở Huế hồi Tết Mậu Thân năm 1968. Đã bắn hỏa tiễn vào đại lộ kinh hoàng giết cả chục ngàn người dân vô tội vào Mùa Hè Đỏ Lửa năm 1972. Đã pháo kích vào trường Tiểu Học Cai Lậy giết hàng trăm em học sinh trên dưới 10 tuổi vào năm 1974. Có thể nói, người dân miền Nam sợ chúng như sợ thần chết, hễ chúng tới đâu là người ta tìm cách chạy trốn về phía quân đội VNCH để tìm sự che chở.<br />Sau khi cưỡng chiếm miền Nam, VC hành hạ các quân cán chính VNCH trong các nhà tù nơi rừng thiêng nước độc nguỵ trang là trại cải tạo. Tù nhân bị lao động khổ sai, bị tra tấn, hành hạ đến suy nhược cả tinh thần lẫn thể xác, thần kinh luôn luôn bị căng thẳng, lao động qúa sức lại thiếu ăn, đau không cho thuốc men, khiến cả ngàn người đã bị chết. Mặt khác, theo kết qủa điều tra của hai giáo sư đại học Jackson và Desbarats thì có ít nhất 65,000 người bị hành quyết trong các trại tù từ 1975-1983, đó là con số khiêm nhường, thật ra nó còn ghê gớm hơn nữa. Trong khi chồng bị tù tội, thì vợ con ở nhà bị tịch thu nhà cửa và đuổi đi vùng kinh tế mới, hoặc sống lê lết bên lề đường hay dưới gầm cầu cống rãnh. Con trai của họ không được vào đại học dù là học sinh xuất sắc, mà bị bắt di lính. Đã có khoảng 60,000 người là con em của thành phần này bị chết trên chiến trường Cambốt hay biên giới Việt Trung, và khoảng hơn 100,000 người bị tàn phế. Trong khi con gái của họ rơi vào cảnh phải làm điếm để phụ giúp mẹ và các em.<br />Cũng sau một thời gian ngắn cưỡng chiếm miền Nam, CSVN đã biến cả nước thành nhà tù vĩ dại dưới tên "Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam"; chúng tiến hành cải tạo xã hội miền nam, mà theo cựu Đại Tá cộng sản Bùi Tín, thì đó thực chất chỉ là ăn cướp tài sản của nhân dân, xóa sạch nền kinh tế thị trường tiến bộ và phá nát hạ tầng cơ sở có sẵn của miền Nam, khiến cả nước lâm vào cảnh đói nghèo lạc hậu có ảnh hưởng cho đến ngày hôm nay. Ông Bùi Tín còn kết án chế đô. VC độc ác vô nhân, vì đã hành hạ hèn mạt quân cán chính VNCH khiến nhiều người phải chết trên rừng thiêng nước độc như trên đã nói, đã phá nát nghĩa trang quân đội và thu vàng bán bến, gỉa vờ cho phép người vượt biển ra đi để tịch thu tài sản của họ, nhưng sau đó lại cho lính bắn chìm ghe vượt biển, giết hại nhiều đồng bào vô tội.<br />Giữa năm 1978, VC mở chiến dịch đánh tư sản mại bản để cải tạo công thương nghiệp, chúng đã ăn cướp tài sản của hơn 40,000 gia đình của người dân miền Nam, khiến họ trở thành trắng tay và phải liều chết vượt biên vượt biển ra đi tìm tự do, tạo nên phong trào thuyền nhân bi hùng nhất trong lịch sử nhân loại; với nửa triệu người chết trên biển cả đã làm rúng động lương tâm nhân loại khi một số quốc gia đã kéo thuyền người tị nạn ra biển không cho cập bến khiến họ phải chết. May mắn thay, Liên Hiệp Quốc biết được chuyện này nên LHQ đã phải họp khẩn ở Geneve ngày 14/11/1978 gồm 71 quốc gia tham dự để tìm phương cách giải quyết. Kết qủa là LHQ đã tuyên bố vấn đề thuyền nhân VN là vấn nạn chung của thế giới và yêu cầu các quốc gia nếu có thuyền nhân cập bến thì phải tiếp nhận và giúp đỡ dưới sự bảo trợ của LHQ<br />Theo một thư tố cáo chưa được công bố, viết ngày 18/4/04 tại Virginia, HK, mà nhân chứng là Ông Trần H và Ông Hoàng Qúy cho biết thì để tạo lý cớ xâm lăng CamBốt năm 1978, CSVN đã đạo diễn tấn thảm kịch cực kỳ dã man, tàn bạo và ghê tởm. Đó là, đêm 18/4/1978, VC đã tập trung mọi người vào các chùa và trường học, không phân biệt già trẻ lớn bé nam nữ và tắm máu 3,157 dân làng Ba Chúc ở biên giới Việt Miên rồi đổ tội cho Khmer Đỏ. Hành động ném đá dấu tay của bọn VC giết người nêu trên là để đánh lừa dư luận. Hành động ấy đã đến lúc cần phải được cho ra ánh sáng để công luận xét xử.<br />Tội ác kế tiếp là đảng CSVN đã bán đất đai và nhượng biển của tổ tiên cho Trung Cộng. Tội ác ấy đã được Thủ Tướng CSVN Phạm văn Đồng chính thức công nhận qua văn thư nhượng đảo và biển gửi cho Thủ Tướng Trung Cộng Chu ân Lai ngày 14/9/1958: "Chính Phủ VNDCCH ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4/9/1958 của Chính Phủ Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa, quyết định về hải phận của Trung Quốc về Hoàng Sa và Trường Sa". Với bản chất bán nước của CSVN, ngày 30/12/1999, Hànội đã bí mật ký kết với Trung Cộng Hiệp Định Về Biên Giới Trên Đất Liền. Và ngày 25/12/2000 ký Hiệp Định Phân Định Vịnh Bắc Bộ và Hiệp Định Hợp Tác Nghề Cá Trong Vịnh Bắc Bộ. Qua những hiệp định này, Việt Nam đã bị mất về tay Trung Cộng 720 Km vuông biên giới phía bắc VN, và 11.000 Km vuông Vịnh Bắc Việt, mất nguồn cá và các loại hải sản quan trọng nuôi sống dân VN, và mất tìềm năng dầu khí dưới lớp thủy tra thạch trong vịnh. Tội ác bán nước được tiếp diễn khi VC bắt bỏ tù Luật Sư trẻ tuổi Lê Chí Quang khi ông kêu gọi nhà cầm quyền hiện nay trong tiểu luận nổi tiếng "Hãy Cảnh Giác Với Bắc Triều".<br />Hiện tại, từ kế hoạch xuất cảng lao động ra nước ngoài đến nạn buôn bán phụ nữ làm cô dâu Đại Hàn & Đài Loan cũng như nạn buôn bán trẻ em dưới vị thành niên sang Cambốt để làm điếm, mà VC chủ trương để lấy tiền bỏ túi, đang là mối sỉ nhục lớn cho dân tộc VN mà những ai quan tâm đều cảm thấy đau xót. Rõ ràng là nhà nước VC không quan tâm đến dân tộc và đất nước mà chỉ quan tâm làm sao giữ được độc quyền cai trị để có đặc quyền đặc lợi.<br />Tổng quát, kể từ khi HCM áp đặt chủ nghĩa CS phi nhân bản phản dân tộc trên đất nước ta năm 1930 cho đến nay, Đảng CSVN đã gieo rắc biết bao tai họa cho dân tộc và đất nước mà hậu qủa hiện nay là sự suy đồi về cả vật chất lẫn tinh thần với sáu nan đề chính mà dân tộc VN phải đối diện và giải quyết. Đó là: tàn phá môi sinh, băng hoại đạo đức, phân cực giầu nghèo, thiệt hại lãnh thổ, bất công xã hội, và thất thoát tài sản quốc giạ<br />Điều đau xót và đáng quan tâm mà mọi người Việt Nam yêu nước phải suy nghĩ là hiện tại dân tộc và đất nước VN nghèo nàn và tụt hậu nhất so với các nước láng giềng. Chính Thủ Tướng VC Phan văn Khải trong kỳ họp Trung Ương Đảng CSVN từ 6-13/1/04 đã thú nhận trước cử tọa: "...VN cần 20 năm nữa mới theo theo kịp Thái Lan...", nên nhớ Thái Lan trước năm 1975 chả hơn gì nếu không muốn nói là thua VNCH. Tháng 9/05, cũng chính Khải tái xác nhận trước nhiều viên chức chính phủ và một số nhà kinh doanh tại Hànội là VN cần 15 năm nữa mới theo kịp Thái Lan. Ông Khải đưa ra những dữ kiện để hỗ trợ cho kết luận trên như phiá VN có lợi tức bình quân đầu người (BQĐN) là 400 dollars/năm với tỉ số phát triển là 8%, trong khi Thái Lan có lợi tức BQĐN là 1650 dollars/năm với tỉ số phát triển là 5%. Thật ra qua hai lần thú nhận trên ta thấy rõ ông Khải có ba điều sai mà ông ta không biết, Thứ nhất, chưa đầy hai năm (1/04-9/05) mà VN đã phát triển và rút ngắn khoảng cách với Thái Lan được ba năm mà không chứng minh được là không đúng. Thứ hai, khi có tiền thì sẽ đẻ ra tiền, Thái Lan giầu hơn VN, họ sẽ dùng tiền đó để phát triển nhanh hơn VN gấp nhiều lần, nghĩa là BQĐN của họ sẽ tăng chứ không phải mãi mãi là 1650 đôla /năm để chờ ta theo kịp họ sau 15 năm. Thứ ba, nếu ta lấy các dữ kiện ông Khải cung cấp để làm bài toán thì ta có kết qủa là cần hơn 50 năm chứ không phải 15 năm với điều kiện là các số đó không thay đổi, đây là điều không thể xẩy ra.<br />Có một điều chúng ta cần quan tâm là lãnh đạo VC xuất thân từ giới nông dân & công nhân như trên Mác đã khẳng định, họ chỉ có khả năng bắn giết chứ không có khả năng xây dựng đất nước vì kiến thức kém, nên đất nưóc bị tụt hậu như ngày nay là lẽ đương nhiên, và ông Khải có nhận thức sai cũng chỉ là điều dễ hiểu.<br />Qua những dữ kiện trên, chúng ta thấy tội ác mà CSVN đã phạm thật vô cùng to lớn, và những tội ác ấy vẫn tiếp tục tái diễn nếu ngày nào CSVN vẫn còn thống trị dất nước. Đây là điều không một người dân VN nào có thể chấp nhận kể cả những đảng viên VC yêu nước dù dã thức tỉnh hay chưa. Điều quan trọng là phải làm sao để mọi người VN nhìn ra để không vô tình tiếp tay nuôi sống chế độ này. Khi mọi người nhìn thấy tầm mức tai hại của những tội ác này thì sẽ nỗ lực tiêp tay gỡ bỏ nó. Mặt khác, với một đất nước mà đa phần là giới trẻ trong khi cộng đồng ở hải ngoại đã bước sang thế hệ thứ ba, thì nhu cầu soi rọi sự thật lịch sử để giới trẻ thấy rõ tội ác của CSVN; và giai đoạn đen tối nhất của lịch sử đất nước trong 7 thập niên qua cần phải được chấm dứt, để đất nước có điều kiện tiến lên ngang hàng với thế giới trong thế kỷ 21 này. Đây là trách nhiệm nặng nề của tất cả con dân VN yêu nước.<br />Đối với thế giới, những tội ác của CSQT cũng đã gây khốn khổ cho nhân loại không ít, và những tội ác ấy cũng đã bị nhiều người kết án. Trong tài liệu "Sách Đen Về Chủ Nghĩa Cộng Sản" của sử gia Pháp là ông Stephane Courtois, giám đốc nghiên cứu thuộc Trung Tâm Quốc Gia Nghiên Cứu về Khoa Học của Pháp, ông Stephane đã vạch ra một cách chính xác về tội ác của CS. Đây là một bức tranh đen tối của lịch sử nhân loại mà theo ông, phải vạch ra để trả lại danh dự cho những người đã chết vì chủ nghĩa CS. Sau khi liệt kê những lãnh tu. CS tàn ác nổi tiếng trên thế giới như Lenine, Staline, Mao, Hồ chí Minh, Castro v.v..., ông đưa ra nhận xét: "... Vượt lên trên mức độ tội ác cá nhân hoặc tàn sát cục bộ địa phương theo hoàn cảnh, các chế dô. CS củng cố quyền hành bằng cách nâng việc tàn sát quần chúng lên hàng chính sách cai trị..."<br />Ngày 25/1/06 vừa qua, Hội Đồng Âu Châu(HĐÂC), một cơ chế gồm 46 nước thành viên, đã thông qua bản Nghị Quyết 1481, nhấn mạnh đến nhu cầu cả nhân loại cần lên án và phơi bầy các tội ác của những chế độ cộng sản toàn trị. Mặc dù Trung và Đông Âu không còn CS, nhưng HĐÂC vẫn có nhu cầu này vì những tội ác CS vẫn chưa được điều tra và những hung thủ chưa bị đem ra xét xử trong khi một số nước vẫn còn bị thống trị của bọn CS ác ôn này nên vẫn là mối đe dọa cho cả nhân loại. Đối với người VN, nhu cầu lên án những tội ác của chế đô. CS không những để cho dư luận toàn thế giới biết dến, mà còn cho chính người VN, nhất là những người còn mơ hồ về tội ác của CSVN giác ngộ. Một lần nữa, kẻ viết xin mọi người cùng tiếp tay phổ biến rộng rãi Nghị Quyết 1481, Qúi vị có thể vô web: queme.com để lấy tài liệu nghị quyết này.<br />Tháng 12/05 những nhà đấu tranh cho dân chủ của Trung Quốc mới ra mắt một cuốn sách tại Hoa Thịnh Đốn. Sách có tên là "Cửu Bình" tức là chín bài bình luận về những tội ác của chính quyền Cộng Sản Trung Quốc kể từ khi chúng thống tri. Trung Hoa, mà tác gỉa là những người có qúa khứ là cộng sản. Trong cuốn đó đã lột hết tất cả những sự lưu manh tàn ác đối với dân tộc Trung Hoa của đảng CS Trung Quốc. Sách được đưa lậu vào lục địa từ Hồng Kông và bí mật chuyển đến tay những đảng viên cộng sản. Kết qủa là chỉ trong vòng một năm rưỡi đã có sáu triệu rưỡi (6.5 triệu) đảng viên, tức khoảng 10% đảng viên trả lại thẻ đảng. Đây là một kết qủa ngoài dự trù. Việt Nam chúng ta hiện nay cũng không thiếu những nhà đấu tranh cho dân chủ mà qúa khứ cũng từng là đảng viên của CSVN như ông Hoàng Minh Chính, Phạm quế Dương, Bùi Tín v.v... mà đa số là những người đã có những bài viết giá trị. Nếu tất cả chúng ta, mỗi ngừơi một tay cùng tìm cách chuyển những bài viết của họ vào trong nước cho cán bộ đảng viên VC cùng đọc thì tôi tin cũng sẽ có những người trả lại thẻ đảng như đảng viên Trung Cộng đã làm. Hàn Phi Tử có câu: "Nước mất mà không biết là bất trí. Biết mà không lo liệu là bất trung. Lo liệu mà không liều chết là bất dũng". Qua gần 5000 năm giữ nước và dựng nước, cả ba cái bất trên, dân tộc anh hùng Việt Nam không có cái nào cả.<br />Từ hồi chủ nghĩa CS xuất hiện trên trái đất gần 100 năm nay, chủ nghĩa ấy đã giết hại hàng trăm triệu sinh linh trên thế giới. Riêng tại Việt Nam hàng triệu đồng bào thân yêu ruột thịt của chúng ta cũng bị chết tức tưởi bởi chủ nghĩa phi nhân tàn bạo này. Chính vì nhận thức chính xác như vậy, nên Cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã gọi chủ nghĩa CS là "Con Quái Vật" (Monster). Tôi đồng ý với danh từ ấy.VIET NAM QUE HUONG TOIhttp://www.blogger.com/profile/17768876020603625276noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-7636341192878165251.post-41897581721279944922008-12-08T01:41:00.000-08:002008-12-08T01:43:13.024-08:00Lệnh hành quyết được đưa thẳng từ Hồ Chí Minh xuốngLệnh hành quyết được đưa thẳng từ Hồ Chí Minh xuống <br />Thảm sát Mậu Thân (I)<br />Về quyết định thảm sát<br />Lữ Giang<br /><br />Khi bài này đến với độc giả, nhiều tổ chức trong cộng đồng người Việt hải ngoại đang tổ chức kỷ niệm 40 Tết Mậu Thân để tướng nhớ đến những người đã bị thảm sát trong biến cố đó. Nhưng một câu hỏi được đặt ra và chưa có câu trả lời: Tại sao Cộng quân đã hành động dã man như vậy?<br /><br />Sau trận Mậu Thân ở Huế, một ủy viên huyện ủy của quận Phú Vang ở Thừa Thiên là Hồ Ty, bí danh Sơn Lâm, đã bị bắt. Trong cuộc thẩm vấn, Hồ Ty đã khai rằng việc thủ tiêu tất cả những người bị bắt là thi hành lệnh Quân Ủy Trị-Thiên-Huế. Sở dĩ có lệnh này là vì khi rút lui, bị quân đội VNCH và Mỹ truy đuổi quá gắt, lo cho đơn vị không nổi làm sao làm lo được cho tù binh được. Số người bị bắt theo quá nhiều làm vướng bận không thể rút lui nhanh được, nên đã có lệnh giết tất cả tù binh.<br /><br />Tạp chí Time của Mỹ số ra ngày 31/10/1969, trong bài “The massacre of Hue” (Cuộc thảm sát ở Huế) đã đặt câu hỏi: “Điều gì đã khiến Cộng Sản tàn sát?” Rồi tạp chí này trả lời:<br />Nhiều người dân Huế tin rằng lệnh hành quyết được đưa thẳng từ Hồ Chí Minh xuống. Tuy nhiên, có lẽ chắc chắn hơn, đơn giản là Cộng Sản đã mất tinh thần. Họ đã bị nhồi sọ để tin tưởng rằng nhiều người dân miền Nam sẽ xuống đường tranh đấu cùng với họ trong cuộc tổng tấn công vào dịp Tết. Nhưng điều đó đã không xảy ra, và khi trận chiến ở Huế bắt đầu nghiêng về phía quân đồng minh, Cộng Sản đã hoảng sợ và giết sạch các tù nhân.<br /><br /><br />Mới đây, trong cuộc phỏng vấn của đài BBC ngày 24.1.2008, ông Bùi Tín cũng đã đưa ra luận điệu tương tự:<br />Khi quân Mỹ đổ bộ lại từ Phủ Bài trở ra để lấy lại Huế thì anh em họ trói, di chuyển đi hàng mấy trăm tới hàng nghìn người. Do vướng chân, mệt, rồi bị pháo bắn ở ngoài biển vào dữ dội cho nên do phần lớn do tự động các chỉ huy trung đội tới trung đoàn đồng lõa với nhau để thủ tiêu không cho cấp trên biết.’’<br /><br /><br />Có một điều người ta quên là cuộc thàm sát đã xẩy ra trong khoảng 10 ngày đầu khi Cộng quân mới chiếm Huế khi Quân Lực VNCH và đồng minh chưa phản công, và nhiều mộ tập thể đã được tìm thấy ngay trong thành phố Huế.<br /><br />Kế hoạch của Hà Nội<br /><br />Đọc cuốn “Chiền trường Trị-Thiên-Huế trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước toàn thắng” của Khu Ủy và Bộ Tư Lệnh Quân Khu Trị-Thiên-Huế do nhà xuất bản Thuận Hóa Huế ấn hành năm 1985, chúng ta biết được quyết định của Hà Nội về việc chiếm Huế làm căn cứ lâu dài của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam.<br /><br />1.Thành lập Khu Ủy và Bộ Tư Lệnh Quân Khu Trị-Thiên-Huế<br /><br />Năm 1965 và năm 1966, khi phong trào Phật Giáo đấu tranh nổi lên ở Huế chủ trương đi theo đường lối của MTGPMN, đòi hòa bình, rút quân Mỹ ra khỏi miền Nam, đốt phòng thông tin và thư viện Mỹ ở Huế, v.v., Hà Nội nhận thấy rằng có thể chiếm Huế làm căn cứ địa lâu dài của MTGPMN vì hai lý do: Lý do thứ nhất là Huế có nhưng thành quách rất vững chắc, nếu chiếm giữ được, Quân Lực VNCH và đồng minh khó lấy lại được, trừ khi phá hủy thành phố. Lý do thứ hai là phong trào Phật ở Huế cho thấy các nhà lãnh đạo Phật Giáo ở đây ủng hội MTGPMN. Vì thế, Hà Nội đã lập một kế hoạch chiếm và giữ Huế rất kỹ càng.<br /><br />Trước 1966, Trị Thiên là Phân Khu Bắc trực thuộc Quân Khu 5. Tháng 4 năm 1966, Thường Trực Quân Ủy Trung Ương ra quyết định thành lập Khu Ủy và Bộ Tư Lệnh Quân Khu Trị-Thiên-Huế tách khỏi Khu 5, và đặt trực thuộc Trung Ương và Quân Ủy Trung Ương. Thiếu tướng Trần Văn Quang được cử làm Tư Lệnh Quân Khu Trị-Thiên-Huế và Đại Tá Lê Minh làm Phụ tá kiêm Trưởng Ban An Ninh Quân Khu. Lê Chưởng, Phó Bí Thư Khu Ủy Trị Thiên Huế, được cử làm làm Chính Ủy.<br /><br />Mới thành lập, Khu Ủy Trị Thiên Huế đã đứng ra lãnh đạo cuộc đấu tranh của Phật Giáo tại Huế, nhưng thất bại. Tài liệu ghi lại như sau:<br />Trong tháng 5,1966 cả thành phố Huế hầu như hổn loạn, ngụy quân, ngụy quyền bị tê liệt. Nhưng do tương quan lực lượng không cân xứng và sự lãnh đạo trực tiếp của ta chưa đủ mạnh, địch đưa quân đến đàn áp khốc liệt và dìm trong bể máu. Các đơn vị ly khai đầu hàng, lực lượng Phật Giáo tan rã, cơ sở của ta trong trào một bị bắt, một số rút vào bí mật. Phong trào kéo dài được 96 ngày.<br />(tr. 111).<br /><br />Báo cáo của Khu Ủy Trị Thiên Huế cho biết lúc đó tại Thừa Thiên có 398 chùa, 9 hòa thượng, 15 thượng tọa, 220 tăng ni sư sãi và 80.000 Phật tử. Báo cáo nói rằng “chính tinh thần dân tộc và ý thức giác ngộ chính trị của nhân dân đã đánh bại quân địch ngay trên lãnh vực tôn giáo mà chúng ta đã ra sức lợi dụng.”<br /><br />2. Lệnh chiếm Huế<br /><br />Tài liệu cho biết: <br />“Ý đồ đánh vào thành phố Huế đã có từ lâu. Tháng 2, 1967 Đồng Chí Đặng Kính và Thanh Quảng ra báo cáo, Bộ đã chỉ thị cho Trị – Thiên nghiên cứu đánh vào Huế và thị xã Quảng Trị. Tháng 5, 1967, Thường Vụ Quân Ủy Trung Ương họp nhận định: “Tình hình phát triển của phong trào đã tạo ra khả năng đánh lớn vào thành phố Huế.”<br />(tr. 136).<br /><br />Chỉ thị còn nói rõ hơn:<br /><br />“Phấn đấu trong 7 ngày đêm hoàn thành mọi mục tiêu cơ bản, tập trung chủ yếu vào 2 ngày 3 đêm đầu. Dự kiến tình huống khó khăn, thì có thể phải một tháng hoặc nếu kéo dài 2, 3 tháng cũng phải chiếm lĩnh bằng được thành phố Huế và giữ đến cùng (dự kiến này chỉ phổ biến bằng miệnh cho cán bộ cao cấp)...”<br />“Nhanh chóng xây dựng lực lượng vũ trang, lực lượng chính trị, xây dựng chính quyền để phát triển thắng lợi...” <br />(tr. 110).<br /><br />Những chỉ thị này cho thấy Hà Nội quyết định chiếm Huế và giữ Huế lâu dài rồi thiết lập một chính quyền tại đây. Ngoài Huế, không thành phố nào trên miền Nam được chỉ thị phải hành động như vậy.<br /><br />3. Chuẩn bị tấn công Huế<br />Việc tấn công Huế không phải dễ dàng vì mặt trận quá rộng lớn. Vì thế, để tấn công Huế, Quân Khu Trị Thiên Huế được lệnh phải chuẩn bị về lực lượng, tổ chức, tư tưởng, lương thực, phương tiện, nhất là phải chuẩn bị chiến trường.<br /><br />Về quân số, Quân Khu Trị Thiên Huế chỉ có 2 trung đoàn chủ lực là E6 và E9, 4 tiểu đoàn bộ binh của hai tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên, 4 tiểu đoàn đặc công và các lực lượng pháo binh, công binh. Lực lượng này quá nhỏ bé, không đủ để mở cuộc tấn công Huế. Do đó, vào cuối năm 1967, Trung Ương đã tăng cường cho Huế Trung Đoàn 9.<br /><br />Gần đến ngày nổ súng, Trung Ương đã tăng cường thêm: Trung Đoàn 2 của Sư Đoàn 324, Trung Đoàn 8 của Sư Đoàn 325. Sau đó tăng cường thêm Trung Đoàn 3/325 rồi Trung Đoàn 1/325. Sau khi chiếm được Huế, Bộ cho tăng cường thêm Trung Đoàn 141 để giữ Huế, nhưng quá muộn. Như vậy Trung Ương đã tăng cường cho Huế đến 5 Trung Đoàn. Với sự tăng cường này, Quân Khu Trị Thiên Huế đã có khoảng 7.500 quân.<br /><br />Về lương thực, Quân Khu đã thu gom được 2000 tấn ở đồng bằng và 1000 tấn ở miền núi.<br /><br />Về chính trị, an ninh và tuyên truyền, Quân Khu đã đưa khoảng 700 cán bộ từ thành phố Huế và đồng bằng lên chiến khu huấn luyện, phân công và ra lệnh phải hành động như thế nào sau khi đã chiếm được thành phố (tr. 141).<br /><br />Chiếm Huế và lập chính quyền<br /><br />Năm 1968, mồng một Tết Mậu Thân nằm vào ngày 30/01/1968 dương lịch. Lệnh tấn công được đưa ra vào luc 2 giờ 35 sáng 31/01/1968, tức sáng mồng 2 Tết. Cuộc tấn công được chia làm hai cánh. Cánh chính là cánh Bắc: Cộng quân tấn công vào Đồn Mang Cá, nơi có Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 1, sân bay Tây Lộc, khu cột cờ Đại Nội, khu Gia Hội, khu Chợ Đông Ba, v.v... Cánh thứ hai là cánh Nam: Cộng quân tấn công vào Tiểu khu Thừa Thiên, cơ sở cảnh sát, đài phát thanh Huế, cầu Kho Rèn, Tòa Đại Biểu Chính Phủ, Dinh Tỉnh Trưởng, nhà lao Thừa Phủ, nhà Ga, v.v...<br /><br />Cộng quân chia Huế thành ba mặt trận: Mặt trận Thành Nội do Đại Tá Lê Trọng Đấu chỉ huy; mặt trận Quận Nhì (tả ngạn sông Hương) do Chính Ủy Hoàng Lanh và mặt trận Quận Ba (hữu ngạn) do Nguyễn Mậu Hiên bí danh Bảy Lanh.<br /><br />Tuy nhiên, Quân Lực VNCH vẫn giữ được Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 1, cơ sở MACV, Tiểu khu Thừa Thiên, đài phát thanh Huế, Trường Kiểu Mẫu và cầu tàu Hải Quân.<br /><br />Phải đến ngày 08/02/1968, tức hơn 7 ngày sau, Quân Lực VNCH và đồng minh mới huy động được lực lượng và chính thức phản công lại. Cuộc chiến rất ác liệt. Quân Lực VNCH và đồng minh đã xử dụng hỏa lực tối đa và tiến vào từng khu phố để đánh bật Cộng quân ra. Ngày 15/02/1968 Hà Nội ra lệnh cho Cộng quân phải tử thủ ở Huế đồng thời tăng cường thêm cho mặt trận Huế Trung Đoàn 141 để bảo vệ những cứ điểm đã chiếm được. Nhưng hỏa lực của Quân Lực VNCH và đồng minh quá mạnh nên Cộng quân được lệnh rút.<br /><br />Sáng 25/02/1968 toàn thể khu Gia Hội được giải tỏa. Đại Đội Hắc Báo của Sư Đoàn 1/BB chiếm được Kỳ Đài, hạ cờ Cộng sản xuống và kéo cờ VNCH lên. Sau 25 ngày đêm giao tranh ác liệt, cuộc chiến ở Huế đã chấm dứt.<br /><br />Vì các trận đánh ở Huế đã được mô tả đấy đủ trong cuốn “Cuộc tổng công kích – tổng khởi nghĩa của Việt Cộng Mậu Thân 1968” của Quân Lực VNCH nên chúng tôi thấy không cần ghi lại ở đây. Chúng tôi chỉ tìm hiểu Việt Cộng đã làm gì sau khi chiếm được Huế và tại sao các cuộc thảm sát đã xẩy ra trong khắp thành phố rồi lan rộng ra các vùng phụ cận.<br /><br /><br />Hoạt động sau khi chiếm Huế<br /><br />Do sự chỉ đạo là huấn luyện từ trước, khi vào Huế, bộ đội lo chiếm các cơ sở quân sự và hành chánh quan trọng ở Huế, còn nhóm cán bộ chính trị, hành chánh và an ninh đã cùng với các thành phần nằm vùng tại địa phương thực hiện các công tác sau đây:<br /><br />Về chinh trị: Ngày mồng 3 Tết (tức 1.2.1968) Hà Nội tuyên bối thành lập “Liên Minh Dân Chủ Dân Tộc Hoà Bình tại Huế” do Tiền Sĩ Lê văn Hảo làm Chủ Tịch. Liên Minh này là một bộ phận của Liên Minh do Trịnh đình Thảo làm Chủ Tịch.<br /><br />Lê văn Hảo gốc người Huế, sang Pháp học từ năm 1953, trở về Huế năm 1966 và dạy nhân chủng học đại học tại Huế và Sài gòn. Năm 1966, Hảo tham gia phong trào ly khai ở Huế và bị bắt sau đó được Đại Học Huế nhận ra. Giữa năm 1967, Hảo được Hoàng Phủ Ngọc Tường và Tôn Thất Dương Tiềm, một cán bộ cộng sản nằm vùng, móc nối vào Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam.<br /><br />Ngoài Lê Văn Hảo, Liên Minh còn có Phó Chủ Tịch là bà Tuần Chi (tên thật là Đào thị xuân Yến, chị vợ Nguyễn Cao Thăng) hiệu trưởng trường nữ trung học Đồng Khánh và Hoà Thượng Thích Đôn Hậu, đương kim Chánh Đại Diện Phật Giáo miền Vạn Hạnh. Các thành phần nồng cốt của Linh Minh còn có: Nguyễn Đóa (cựu giám thị trường Quốc Học), Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Nguyễn Đắc Xuân, Phan Duy Nhân, Phạm Thị Xuân Quế, Tôn Thất Dương Tiềm, Tôn Thất Dương Kỵ, Tôn Thất Dương Hanh...<br /><br />Về hành chánh:: Khu Ủy Trị Thiên quyết định thành lập Ủy Ban Nhân Dân Cách Mạng Thành Phố Huế và giao cho Tiến sĩ Lê Văn Hảo làm Chủ Tịch Ủy Ban, còn bà Tuần Chi (tức Đào Thị Xuân Yến) và Hoàng Phương Thảo, thường vụ Thành Ủy, làm Phó Chủ Tịch. Tuy nhiên, mọi quyết định đều năm trong tay Hoàng Phương Thảo.<br /><br />Khu Ủy giao cho Hoàng Kim Loan (một cán bộ nằm vùng trong nhà Nguyễn Đóa), Hoàng Lanh (Thường Vụ Thành Ủy Huế) và Phan Nam (tức Lương) thành lập các Ủy Ban Nhân Dân Cách Mạng tại mỗi quận trong thành phố.<br /><br />Hoàng Kim Loan phụ trách Thành Nội (Quận 1) đã đưa Nguyễn Hữu Vấn, Giáo Sư Trường Quốc Gia Âm Nhạc Huế lên làm Chủ Tịch. Phan Nam phụ trách Quận Tả Ngạn (Quận 2) đã giao chức chủ tịch cho Nguyễn Thiết (tức Hoàng Dung). Tại Quận Hữu Ngạn (Quận 3), Hoàng Lanh, vì phải dồn mọi nổ lực vào việc bắt các thành phần bị coi là Việt gian, ác ôn và phản động và đưa đi thủ tiêu, nên chưa kịp thành lập Ủy Ban Nhân Dân<br /><br />Về an ninh: Đi theo quân đội chủ lực là các đại đội đặc công, võ tranh tuyên truyền và các toán an ninh. Hoạt động về an ninh được đặt dười quyền chỉ huy của Đại Tá Lê Minh, Phụ tá Bộ Tư Lệnh Quân Khu kiêm Trưởng Ban An Ninh Quân Khu. Trụ sở chính của Ban An Ninh được đật tại Chùa Từ Đàm.<br /><br />Chỉ huy các toán an ninh là Tống Hoàng Nguyên và Nguyễn Đình Bảy (tực là Bảy Khiêm) thuộc Khu Ủy Trị Thiên.<br /><br />Ban An Ninh chia thành phố Huế thành 4 khu để phân chia trách nhiệm hành động:<br />Khu 1 là Quận 1, tức Thành Nội.<br /><br />Khu 2 là Quận 2 thuộc vùng tả ngạn sông Hương, nhưng lấy cầu Gia Hội làm ranh giới rồi kéo dài về hướng Tây, qua khỏi cầu Bạch Thổ, xuống tận An Vân, tức bao gồm một phần của Quận Hương Trà.<br /><br />Khu 3 là Quận 3, tức khu vực hữu ngạn sông Hương, nhưng bao gồm luôn cả giáo xứ Phủ Cam thuộc Quận Hương Thủy ở phía Nam sông An Cựu.<br /><br />Khu 4 là phần lãnh thổ từ cầu Gia Hội đến Cổn Hến. Phần này vốn thuộc Quận 3.<br /><br />Tống Hoàng Nguyên phụ trách Khu 1 và Khu 2, Nguyễn Đình Bảy phụ trách Khu 3 và Nguyễn Đắc Xuân đặc trách Khu 4.<br /><br />Còn tiếp<br /><br /><br /><br />Tàn sát Tết Mậu Thân tại Huế (1968) (phần III) <br />Về các lực lượng trong cuộc tổng công kích Tết Mậu Thân:<br /><br />1) Rõ ràng du kích cộng sản miền Nam đã hoàn toàn thất bại. Đại bộ phận lực lượng MTDTGPMNVN bị tiêu diệt. Nhiều tài liệu của phía CSVN cho thấy MTDTGPMNVN hầu như kiệt quệ sau vụ Mậu Thân. Cuộc tổng công kích không được dân chúng hưởng ứng. Dưới lằn đạn của du kích CS, dân chúng hướng về phía quân đội VNCH hay quân đội Hoa Kỳ để tìm đường sống, chứ không ai chạy theo CS cả.<br /><br />2) Quân lực VNCH bị tấn công bất ngờ, nhưng đã phản ứng kịp thời, nhanh chóng và mạnh mẽ. Khi bình luận về trận Mậu Thân, ông Yves Gras, một tướng lãnh Pháp, đã viết: “Quân đội Nam Việt giữ vai trò chủ yếu trong các trận đánh bẻ gãy cuộc tấn công của phương Bắc trong Tết Mậu Thân vào tháng 2 năm 1968.”(43) Sau Tết Mậu Thân, khi được tổng thống Hoa Kỳ gởi sang thị sát chiến trường Việt Nam ngày 23-2-1968, tướng Earle G. Wheeler, trong báo cáo gởi về Washington, đã nhấn mạnh: “Các lực lượng vũ trang Việt Nam Cộng Hòa đã kháng cự cuộc tấn công ban đầu với một sức mạnh thần kỳ.”(44)<br /><br />3) Quân du kích CSVN tấn công Tòa đại sứ Hoa Kỳ tại Sài Gòn nhắm mục đích gây tiếng vang chính trị, nhưng trong cuộc tổng công kích Tết Mậu Thân, Việt Cộng tránh đụng độ trực tiếp với lực lượng Hoa Kỳ, mà chỉ nhắm tấn công vào quân lực VNCH. Vì vậy, quân đội Hoa Kỳ và Đồng minh chỉ hoạt động để giúp đỡ quân dội VNCH. Do đó có người cho rằng quân đội Hoa Kỳ phản ứng chậm. Lực lượng Hoa Kỳ và Đồng minh thiệt hại tương đối nhẹ.<br /><br />Tuy nhiên việc CSVN tấn công vào các thành phố đã làm cho dân chúng Hoa Kỳ hoang mang về tình hình an ninh ở Việt Nam, khiến họ tránh đến Việt Nam đầu tư, làm ăn buôn bán. Quan trọng hơn nữa, dân chúng Hoa Kỳ ở cách Việt Nam nửa vòng trái đất, chỉ theo dõi tình hình qua truyền hình và báo chí. Lúc đó truyền hình và báo chí thiên tả hoạt động mạnh, tô đậm chiến tranh Việt Nam, khiến cho dân chúng Hoa Kỳ lo ngại cho thân nhân của họ đang thi hành quân dịch ở Việt Nam. Việc nầy tạo cơ hội cho các phong trào phản chiến đòi rút quân Hoa Kỳ khỏi Việt Nam hoạt động mạnh hơn nữa. Chỉ khi nào quân đội Hoa Kỳ rút khỏi Việt Nam, Bắc Việt cộng sản mới hy vọng chiến thắng ở miền Nam. Dầu thế nào, cuộc tổng công kích Tết Mậu Thân cũng ảnh hưởng sâu rộng đến chính trường Hoa Kỳ.<br /><br />Ngày 23/02/1968, tổng thống Lyndon Johnson cử tướng Earle G. Wheeler sang Việt Nam tìm hiểu tình hình tại chỗ. Tướng Wesmoreland, tư lệnh Quân lực Hoa Kỳ tại Việt Nam đề nghị tăng 206,000 quân Hoa Kỳ vào Việt Nam. Ngày 1-3-1968, quyết định cử Clark Clifford giữ chức bộ trưởng Quốc phòng thay Robert Mc Namara. Ngày 22-3-1968, Lyndon Johnson cử tướng Abrams, tư lệnh phó MACV thay tướng Westmoreland. Ngày 30/03/1968, tổng thống tuyên bố không tái ứng cử và xúc tiến việc tìm kiếm một giải pháp chính trị trên bàn hội nghị. Từ năm 1969, Hoa Kỳ bắt đầu kế hoạch “Việt Nam hóa” chiến tranh, mở đầu cho việc rút quân Hoa Kỳ sau nầy...<br /><br />4) Như đã trình bày ở trên, kẻ hưởng lợi nhiều nhất trong cuộc tổng công kích Tết Mậu Thân là cộng sản Bắc Việt. Sau năm 1975, bác sĩ Dương Quỳnh Hoa, một thành viên quan trọng trong MTDTGPMNVN cho rằng “Hà Nội đã có tội khi đưa ra những tính toán sai lầm làm tiêu phí hết sức mạnh của miền Nam.”(45) Thật ra, Hà Nội không sai lầm, mà Hà Nội tính toán trước việc nầy, dầu thắng hay bại, CS Hà Nội đều hưởng lợi (đã trình bày ở trên). Khi quân đội MTDTGPMNVN bị tiêu diệt, cộng sản Hà Nội liền ào ạt gởi quân vào Nam để tăng viện, điền trám chỗ trống, giữ vững quân đội du kích cộng sản khỏi bị suy sụp. Từ đó, CS Bắc Việt hoàn toàn điều khiển MTGPDTMNVN, và loại bỏ những thành phần miền Nam vốn không tuân phục quyền lực Hà Nội trong MTDTGPMNVN. Ngoài ra, Hà Nội khá lợi thế trên chính trường quốc tế trong việc thương lượng để tìm kiếm một giải pháp chính trị cho chiến tranh Việt Nam.<br /><br />Cuối cùng, dầu bên nào thành công, bên nào thất bại, thiệt thòi nhất vẫn là dân chúng Việt Nam. Người Việt Nam ở cả Bắc lẫn Nam Việt Nam đã mất mát nặng nề trong vụ Mậu Thân. “Nhất tướng công thành vạn cốt khô” (một vị tướng thành công thì có cả hàng vạn người chết). Xin chú ý thêm rằng Mậu Thân mới chỉ là một trận đánh, trong nhiều trận đánh của cuộc chiến hoàn toàn phi nghĩa kéo dài trong 30 năm trên quê hương Việt Nam, do Hồ Chí Minh và đảng CSVN gây ra, khiến khoảng 3 triệu người đã bỏ mạng.<br />Theo tin các báo, ngày 22-1-2008, tổng thống Đại Hàn Dân Quốc (Nam Hàn hay Nam Triều Tiên) Roh Moo-hyun đã xin lỗi dân chúng Đại Hàn vì cảnh sát và quân đội đã xử tử không thông qua xét xử 870 người ở thành phố Ulsan trong tháng 7 và tháng 8, 1950 do dính líu đến hoạt động của cộng sản trong thời gian đầu của chiến tranh Triều Tiên 1950-1953.<br /><br />Trong khi đó, cũng theo tin các báo, từ ngày 18/06/2007 đến ngày 27/06/2007, Viện Nghiên cứu Vùng và Quốc tế của Đại học Princeton đã tổ chức một cuộc hội thảo tại Hà Nội về đề tài “Chiến tranh giữa Hoa Kỳ và Việt Nam: nguồn gốc, hệ lụy và hậu quả”. Trong khóa hội thảo nầy, giáo sư Nguyễn Đình Lê, phó tiến sĩ khoa Lịch sử, hiện giảng dạy tại Đai học Quốc gia Hà Nội, đã chối tội cho chế độ Hà Nội bằng cách lập luận rằng vụ thảm sát Tết Mậu Thân là do Mỹ ngụy tạo để đổ lỗi cho CSVN (?)<br /><br />Cộng Sản Việt Nam đã không nhận lỗi mà còn cho một giáo sư chối tội hết sức ấu trĩ, vì lối bào chữa của ông Nguyễn Đình Lê thật đúng là “Lấy vải thưa che mắt thánh” (tục ngữ). Nếu quả thật quân nhân Mỹ phạm một trọng tội như vậy, chắc chắn CSVN đã la làng từ 40 năm nay, chứ không phải đợi đến bây giờ ông giáo sư đại học Hà Nội mới lên tiếng. Và nếu quả thật quân đội Mỹ phạm trọng tội như vậy thì chẳng những CSVN la làng, mà truyền thông Tây phương (báo chí, đài phát thanh, đài truyền hình, sách vở) cũng đã làm rùm ben, khai thác triệt để, chắc chắn còn hơn cả vụ Mỹ Lai. Ngoài ra, những nhân chứng người Việt hay người ngoại quốc về vụ Mậu Thân hiện nay còn sống ở Huế hay ở khắp nơi trên thế giới. Những hình ảnh rùng rợn về Tết Mậu Thân vẫn còn đó, hàng ngày xuất hiện trên báo chí hay trên các website khắp toàn cầu.<br /><br />Mới đây, ngày 1-2-2008, CSVN tổ chức các cuộc diễn hành của lực lượng võ trang, kể cả cựu chiến binh tại Sài Gòn để ăn mừng “chiến thắng” Mậu Thân, trong khi hàng vạn gia đình Việt Nam âm thầm tổ chức lễ kỵ giỗ để tưởng nhớ thân nhân của mình đã từ trần trong vụ Mậu Thân..<br />“Trăm năm bia đá thì mòn,/ Ngàn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ”. Vụ án Trần Thủ Độ giết con cháu nhà Lý năm 1232, dù tối đa chỉ vài trăm người, đã trên bảy trăm năm, ngày nay sử sách vẫn còn nhắc nhở, và sẽ mãi mãi nhắc nhở. Sự dã man của tập đoàn lãnh đạo cộng sản Hà Nội qua biến cố Tết Mậu Thân, đậm nét không kém gì những vụ án dã man khác của đảng Cộng Sản, chắc chắn không bao giờ phai mờ trong ký ức của người Việt.<br /><br />Xin hãy cùng nhau thắp nén hương lòng tưởng nhớ nạn nhân cộng sản trong vụ Mậu Thân nói riêng và trong suốt cuộc chiến vừa qua trên đất nước yêu quý của chúng ta.<br />Toronto, Canada<br /><br />© DCVOnline<br /><br />________________________________________<br />(32) *Phạm Văn Sơn (chủ biên), sđd. tr. 35.− Don Oberdorfer, sđd. trang đầu sách: “Tặng những người đã hy sinh (từ 29-1 đến 31-3-1968)", không ghi số trang.<br />(33) Douglas Pike, The Vietcong Strategy of Terror [Chiến lược khủng bố của Việt Cộng], bản trích dịch của điện báo Mặt Trận Quốc Gia, http://www.nufronliv.org/tailieu/tet68/mauthan3.htm<br />(34) David T. Zabecki, “Huê, Battle of (1968)", bđd., sđd. tr. 304.<br />(35) Stéphane Courtois và một số tác giả, sđđ. tr. 572.<br />(36) Don Oberdorfer, sđd. tr. 45. Nguyên văn: “We had nothing to do with it. The [National Liberation] Front put it on.”<br />(37) Thành Tín [Bùi Tín], sđd. tt. 185-186.<br />(38) Sau biến cố năm 1945, trên toàn cõi Việt Nam, rất nhiều người bị thủ tiêu. Sau đây là ví dụ vài nhân vật có tiếng: ở Bắc: Nguyễn Thế Nghiệp, Nguyễn Ngọc Sơn, Đào Chu Khải, Trương Tử Anh, Khái Hưng...; ở Trung: Phạm Quỳnh, Ngô Đình Khôi, Ngô Đình Huân, Tạ Thu Thâu...; ở nam: Phan Văn Hùm, Trần Văn Thạch, Bùi Quang Chiêu, Hồ Văn Ngà, Huỳnh Phú Sổ ... Tổng số người bị thủ tiêu trong thời gian nầy trên toàn cõi Việt Nam từ thượng tầng đến hạ tầng ở thôn xã lên đến khoảng vài trăm ngàn người.<br />(39) Trong “Bạch thư Cao Đài giáo", viết bằng hai thứ tiếng Việt và Anh, do vị đại diện đạo Cao Đài là Ngọc Sách Thanh đưa ra ngày 9-4-1999 tại San Bernardino, California, gởi cho ông Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc và Uỷ ban Quốc tế Nhân quyền, thì chỉ trong ba tuần lễ kể từ 19-8-1945, tại Quảng Ngãi, VM cộng sản đã giết bằng nhiều cách 2.791 người, vừa chức sắc, chức việc, vừa tín hữu Cao Đài giáo, kể cả phụ nữ và trẻ em,” như chém đầu, chôn sống, thả biển, và cả hình thức “tùng xẻo” thời trung cổ.” [nguyên văn]<br />(40) Nguyễn Long Thành Nam, Phật giáo Hòa Hảo trong dòng lịch sử dân tộc, California: Nxb. Đuốc Từ Bi, 1991, tr. 359.<br />(41) Theo tài liệu của Nguyễn Long Thành Nam trong sách đã dẫn và của Huỳnh Tâm, Cao Đài dưới chế độ cộng sản Việt Nam, Paris: Ban Đạo Sử Đạo Cao Đài, 1994.<br />(42) Ngày nay, ai cũng thấy rõ ràng: Đông Đức và Tây Đức thống nhất không đổ máu; Bắc Hàn và Nam Hàn hiện bắt tay bàn chuyện giúp đỡ và thống nhất; Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa và Đài Loan tuy tranh chấp về chính trị và quân sự nhưng vẫn giữ nguyên tình trạng cũ.<br />(43) Yves Gras [tướng lãnh Pháp], “L'autre armée Vietnamienne, L'engagement des Vietnamiens dans la guerre d'Indochine (1945-1975)", đăng trong sách Indochine: Alerte à l'histoire của một nhóm tác giả, Académie des Sciences d'Outre-Mer [Viện Hàn Lâm Khoa Học Hải Ngoại], Institut de l'Asie du sud-est [Viện Nghiên Cứu Đông Nam Á] và Association nationale des anciens d'Indochine [Hiệp Hội Quốc Gia Cựu Chiến Binh Đông Dương] đồng xuất bản, Paris, 1985, tr. 279. Nguyên bản Pháp văn câu nầy là: “L'armée sud-vietnamienne joue un rôle capital dans les combats qui brisent l'offensive nordiste du Têt Mau Than en février 1968...”<br />(44) Tường trình của tướng Earle G. Wheeler (1908-1975) được tướng Yves Gras (người Pháp) trích dẫn trong bài viết của Yves Gras đã trích dẫn ở trên. Nguyên bản Pháp văn Yves Gras dịch của Wheeler: “Les forces armées de la République du Vietnam ont résisté à l'assaut initial avec une force surprenante.”<br />(45) Peter Macdonald, Giap, the Victor in Vietnam, New York: W.W. Norton & Company, 1993, p. 268. Nguyễn Đức Cung trích dẫn, “Từ ấp chiến lược đến biến cố Tết Mậu Thân”, tập san Định Hướng, Paris: số 51, Mùa Xuân 2008.<br /><br /><br />Tàn sát Mậu Thân tại Huế (1968) (Phần II)VIET NAM QUE HUONG TOIhttp://www.blogger.com/profile/17768876020603625276noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-7636341192878165251.post-34082252297974820072008-09-20T02:40:00.000-07:002008-09-20T02:50:17.851-07:00Phạm Văn Đồng ký công hàm "bán nước" năm 1958 : Vết nhơ tội lỗi<p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 0pt"><span style="font-family:Tahoma;font-size:14;color:#ccffff;"><br /><span style="font-size:180%;"><strong><span style="font-family:Tahoma;">14 Tháng 9 Năm 1958 - Ngày Đảng CSVN Ký Công Hàm Bán Nước </span></strong><br /><em><span style="font-family:Tahoma;">Trần Nam</span></em><br /><br />Trong cuộc gặp giữa Thủ tướng Việt Nam Phạm Văn Đồng và Phó thủ tướng Trung Quốc Li Xiannian hồi tháng 6, 1977 tại Bắc Kinh, Li nói với Thủ tướng Phạm Văn Đồng rằng "Trường Sa và Hoàng Sa thuộc chủ quyền của Trung Quốc và những điều này có chứng cớ lịch sử để xác định". Đồng thời cũng nói thêm "trong quá khứ phía Việt Nam đã công nhận điều này", một cách ám chỉ chính cá nhân Thủ tướng Phạm Văn Đồng. (Beijing Review - May 1979)<br /><br />Tài liệu không nói rỏ Thủ tướng Việt Nam Phạm Văn Đồng đã phản bác lại những lập luận của Trung Quốc thế nào để bênh vực chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa. Tuy nhiên, dư luận có thể hiểu là đảng Cộng sản Việt Nam và đích thân Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã không thể chống đỡ nổi luận điệu này vì bị rơi vào thế "há miệng mắc quai".<br /><br />Theo Bộ ngoại giao Trung Quốc thì chủ quyền của họ đối với Trường Sa và Hoàng Sa là không thể tranh cải (Beijing Review, Feb 18, 1980). Vì chính Hà Nội, trong các cuộc đàm phán trước kia đã chính thức công nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với hai quần đảo này rồi, vì vậy nếu Hà Nội thay đổi thái độ của họ thì không có cơ sở. Trung Quốc đã đưa ra hai sự kiện cụ thể để làm bằng chứng Đảng Cộng sản Việt <?xml:namespace prefix = st1 ns = "urn:schemas-microsoft-com:office:smarttags" /><st1:country-region st="on"><st1:place st="on">Nam</st1:place></st1:country-region> đã từng đồng ý với Trung Quốc về chủ quyền của hai quần đảo đang tranh chấp này.<br /><br />Sự kiện thứ nhất là vào tháng 6 năm 1956, Phó thủ tướng Việt Nam, ông Ung Văn Khiêm, thay mặt Bắc Việt Nam xác nhận với phiá Trung Quốc như sau "Theo các tài liệu lịch sử từ phía chúng tôi (Việt Nam), đảo Xisha (Hoàng Sa) và Nansha (Trường Sa) thuộc về vùng đất lịch sử của quý quốc (Trung Quốc)".<br /><br />Sự kiện thứ hai là ngày 14 tháng 9 năm 1958, tức 2 năm sau đó, Thủ tướng Bắc Việt Nam đã gửi công hàm đến Thủ tướng Chu Ân Lai xác nhận chủ quyền Trung quốc đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, sau khi Trung Quốc chính thức công bố chủ quyền lãnh hải của họ là 12 hải lý, bao gồm luôn các quần đảo Hoàng Sa (Xisha) và Trường Sa (Nansha) của Việt Nam. (1)<br /><br />Nội dung bức công hàm Thủ tướng Bắc Việt Nam Phạm Văn Đồng viết như sau "Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng Hoà ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958".<br /><br />Năm 1979, 21 năm sau, khi chiến tranh biên giới Việt-Trung bùng nổ, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã tìm cách phủ nhận công hàm trên khi trả lời cuộc phỏng vấn của tờ báo Viễn Đông Kinh Tế. Ông Đồng cho rằng vì lúc đó đất nước có chiến tranh nên Đảng và Nhà nước đã phải ứng xử như vậy. Nói cách khác, vì quyền lợi của đảng CSVN và vì những mưu cầu chính trị, đảng CSVN sẳn sàng nhượng bộ về nhiều mặt, kể cả việc bán đứng chủ quyền của đất nước.<br /><br />Hiện nay vấn đề tranh dành chủ quyền Trường Sa và Hoàng Sa đã càng lúc càng trở nên gay gắt, có nguy cơ đối đầu bằng chiến tranh để giải quyết những mâu thuẩn. Sự kiện Thủ tướng Phạm Văn Đồng thay mặt đảng CSVN xác nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với hai quần đảo này đặt cho Hà Nội ở vị thế khó xử, cho dù chủ quyền của Việt Nam đã có những chứng liệu lịch sử xác nhận. Việt Nam hiện ra sức giải thích với dư luận trong và ngoài nước về lỗi lầm họ đã mắc phải, biện minh rằng "Trong giai đoạn chiến tranh chống Mỹ nên Việt Nam phải nhượng bộ trước áp lực của Trung Quốc, mặc dù công hàm viết như vậy nhưng không ảnh hưởng đến chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa".<br /><br />Điều nghịch lý là trong bối cảnh lịch sử lúc đó, năm 1958, chủ quyền của Hoàng Sa và Trường Sa thuộc về phiá Chính phủ Miền Nam Việt Nam. Trong khi phiá Miền Nam đã tìm đủ mọi cách để khẳng định chủ quyền thì đảng CSVN lại trơ trẻn ra công hàm phủ nhận chủ quyền của họ, phản bội quyền lợi đất nước và dân tộc, cam tâm bán đứng hai quần đảo này cho phiá Trung Quốc.<br /><br />Năm 1951 tại Hội nghị ở San Francisso, khi Nhật ký Hiệp định hoà bình, Hiệp định này đã không đề cập rỏ ràng chủ quyền của nước nào đối với Trường Sa và Hoàng Sa. Chính phủ Việt Nam, Thủ tuớng Trần Văn Hữu có mặt trong Hội nghị đã tuyên bố công khai Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam. Thủ tướng Trần Văn Hữu, khẳng định tại Hội nghị trong ngày 7 tháng 7 năm 1951 như sau: "Trong khi chúng ta cùng khai dụng mọi cơ hội để làm giảm đi những căng thẳng, phiá Việt Nam chúng tôi xin khẳng định chủ quyền đối với hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa vì những quần đảo này luôn thuộc về Việt Nam". (2, 3)<br /><br />Trong số 51 quốc gia tham dự, đại biểu phía Liên Bang Sô Viết sau đó đề nghị nên thêm một phần trong bản Hiệp định, đề cập rằng Nhật đặt hai quần đảo này dưới chủ quyền của Trung Quốc. Đề nghị đó đã bị Hội nghị biểu quyết không chấp thuận với tổng số 46 phiếu thuận. Nói cách khác, Hội nghị với đại biểu của 46 trong tổng số 51 quốc gia tham dự lúc đó đã công nhận chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa.<br /><br />Chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa là không thể phủ nhận. Sự kiện Trung Quốc đã không phản bác tuyên bố của phiá Việt Nam trước công luận thế giới sau Hội nghị 1951 tại San Francisco đã xác nhận điều này. Tuy nhiên, đến khi Đảng CSVN, đại diện là Thủ tướng Phạm Văn Đồng, vì quyền lợi của Đảng đã ký công hàm "bán nước" vào ngày 14 tháng 9 năm 1958 thì phiá Trung Quốc có cở sở để chính thức phản bác và ngang ngược đòi chủ quyền của họ trên hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa.<br />Nước chảy đá mòn nhưng "Ngàn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ". Vết nhơ về lỗi lầm ngoại giao trước dư luận thế giới có thể che đậy, nhưng vết nhơ về tội lỗi mang tính lịch sử thì không thể xóa nhòa.<br /><br /><strong><span style="font-family:Tahoma;">Trần Nam </span></strong><br />Đảng Dân Chủ Nhân Dân<?xml:namespace prefix = o ns = "urn:schemas-microsoft-com:office:office" /><o:p></o:p></span></span></p>VIET NAM QUE HUONG TOIhttp://www.blogger.com/profile/17768876020603625276noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-7636341192878165251.post-71713017746082201062008-05-30T01:23:00.000-07:002008-09-03T02:54:46.300-07:00CHIEN TRANH LANH: AI GIET AI, AI THU LOI NHUAN<p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 0pt"><span style="font-family:Verdana;"><span style="color:#ffff66;"><span style="font-size:180%;">CHIEN TRANH LANH : AI LA KE THU LOI NHUAN<?xml:namespace prefix = o ns = "urn:schemas-microsoft-com:office:office" /><o:p></o:p></span></span></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 0pt"><span style="font-family:Verdana;font-size:180%;color:#ffff66;"><o:p></o:p></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 0pt"><span style="font-family:Verdana;"><span style="color:#ffff66;"><span style="font-size:180%;">Khi che do Cong San ra doi tai nuoc Nga va chang bao lau, phong trao Cong San lan rong den dong Au, Trung Hoa..Nguoi ta tai sao CS lan tran mot cach mau chong va manh me hon bao gio !. Bang nhung phuong phap cai tri doc tai, doc Dang dua tren nen tang tu tuong Mac, nhung ke cam dau da dung nhung thu doan qui quyet, tru dap, ham doa cho den khai tru, thu tieu nhung nguoi trong noi bo de cung co va bao ve Dang CS den tuyet doi. CS da tao nen suc manh tu bao luc, tu vu khi va tu tai nguyen vat luc, cua cai tu nguoi dan sao khi ho thu tom, vo vet. Chung da day bao lan nhau nhung sach luoc cai tri ban thiu, hen ha, vo nhan: BAN CUNG HOA NHAN DAN, NHOI SO TAY NAO, TO CAO THEO DOI, DAU TRANH GIAI CAP, TAO CHIA RE GAY THU HAN,.. con biet bao thu doan man ro khong he nao ke het.<span style="mso-spacerun: yes"> </span><span style="mso-spacerun: yes"></span>CS cung da ung dung nhung duong loi cai tri, tan doc, nham hiem de sai khien nguoi dan nhung hang no le, buoc di giet nguoi nhu loai danh thue chem muon, cuong buc dan lam viec kho cuc hon trau bo, cung tu do nhung che do CS nam toan bo quyen sinh sat trong tay nen deu co tham vong banh truong De quoc Do con do vo lai khap hoan cau.<o:p></o:p></span></span></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 0pt"><span style="font-family:Verdana;"><span style="color:#ffff66;"><span style="font-size:180%;">Cac che do CS deu nam gon cac nganh nghe ve kinh te, san xuat, mua ban, dau tu..dac biet la lanh vuc quoc phong, che tao vu khi,… Nhung ten cam dau cua khoi Cong thu loi nhuan vo so ke, quyen luc chi phoi ca dat nuoc, bat ke doi song nguoi dan song hu the nao, cu viec thu gom, ke ca cuop bang quyen the, muu mo, lua dao. Mot dat nuoc ma chi biet sung dan, xe tang tau chien, may bay hoa tien, luu dan min bay, dao gam ma tau thi tat phai gay chien tranh: Gay chien tranh de tieu thu so vu khi giet nguoi nay, de tao nen nhieu nuoc chu hau, cac chu hau phai trao doi tai nguyen, ham mo…Trong cac nuoc De quoc Do CS, bon cam dau lai duoc tang them quyen luc, quyen sinh sat bat cu ai va tu do chung <span style="mso-spacerun: yes"></span>giu quyen the toi cao, giu chuc vu day loi nhuan cho dong con cai, ho hang, ba con xa gan..theo cai goi la Luat cua CS : khong ai duoc ban den.<o:p></o:p></span></span></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 0pt"><span style="font-family:Verdana;"><span style="color:#ffff66;"><span style="font-size:180%;">The day, Cong ra suc thu gom vo vet cua cai nguoi den trong nuoc, nao sach tai nguyen dat nuoc, den noi moi ten Can Cong cop LON cung co vai chuc Ti Dola, trong khi do hau het nguoi dan thuong khong du luong thuc, ao quan ma ho chinh la nguoi lam viec, la nguoi truoc do deu co cua cai, co nhung phuong tien lam an chan chinh. <o:p></o:p></span></span></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 0pt"><span style="font-family:Verdana;"><span style="color:#ffff66;"><span style="font-size:180%;">Cong muon tieu diet cac che do Tu Ban, Cong buoc thanh nien nam nu di giet nguoi, Cong muon loi dung su tho ngay va ngu dot cua lop tre sau nhung thang nam bi lua bip, day ho vao con duong chet. Rieng tai Dong duong ma thoi gom co 3 nuoc VIET, MIEN , LAO, ai ai cung thay Lao Cong giet nguoi Lao, Mien Cong giet nguoi Mien, Viet cong giet nguoi Viet. Nhung ten Cong nay , cam sung cua bon nuoc ngoai ve giet dan trong nuoc la loai cong ran can ga nha, ruoc voi ve day ma to. Lop thanh nien ngu xuan nay chet dan mon hon 20 nam qua, chet trong dau kho va tui nhuc vi bi lua : CHI LA CONG CU DI DANH CUOP CHO BON DAU SO CONG SAN.<o:p></o:p></span></span></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 0pt"><span style="color:#ffff66;"><span style="font-size:180%;"><b style="mso-bidi-font-weight: normal"><u><span style="font-family:Verdana;">Cac nha chien luoc TU BAN da lam gi khi CS banh truong khap moi noi</span></u></b><span style="font-family:Verdana;">: <span style="mso-spacerun: yes"></span>da ve nen mot chien luoc bi mat : Hay de CS lan rong. Tai sao vay?<o:p></o:p></span></span></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 0pt"><span style="font-family:Verdana;"><span style="color:#ffff66;"><span style="font-size:180%;">Mot dat <span style="mso-spacerun: yes"></span>nuoc CS ngheo nan, mot he thong quan ly yeu kem vi phe dang, an cap, tong tien, mot duong loi kinh te sai quay chi dua tren tai san cua nguoi khac de truc loi thi AI AI CUNG MUON AN CAP, CUA CHUNG MA LI. Nhung thang to nhat la thang AN CAP nhieu nhat, cho den thang nho nhat cung an cap va pha hoai, thang lon hu doa doi tien thang nho hon, vay thi lam sao ma doi di tieu diet the gioi tu ban, roi thi tai nguyen can kiet, doi song lac hau, van hoa tro nen ngo ngan…ro la dien. Theo duoi mot cuoc chien tranh de nam giu quyen luc lai bi TU BAN gai bay, bon Cong chi con cach tron sang TU BAN<o:p></o:p></span></span></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 0pt"><span style="font-family:Verdana;"><span style="color:#ffff66;"><span style="font-size:180%;">Co mot dieu bi mat la vo so thang Cong co 30 Ty Dola, tai Lien xo, Trung cong va hang chuc nuoc CS, <span style="mso-spacerun: yes"></span>day chinh la <span style="mso-spacerun: yes"></span>tien an cap, an cuop nen chung deu dau nhem khong dem ra kinh doanh nhu nhung nha kinh doanh tai cac nuoc Tu ban vi so lo tay, so tien thu gom nho gay chien tranh, che tao vu khi nay chung ben dem gui ngay ben cac nuoc Tu ban la an toan nhat( ke thu day nhe). Phuong Tay da biet chuyen nay hang tram nam truoc, ngay truoc khi co chien tranh Lanh . Nen den khi dan CS sap chet doi,bo doi cong an CS khong con giuong cao vu khi, ho het chuoi rua man ro nhu truoc… thi phuong <?xml:namespace prefix = st1 ns = "urn:schemas-microsoft-com:office:smarttags" /><st1:place st="on">Tay</st1:place> den, ho rat lich su, xai tien nhu nuoc. Thang Cong phi moi moc cac Ngai tu ban sang nuoc toi choi, muon dau tu mua ban gi cung duoc het, mien la cho chung con sang tron ben nuoc tu ban. The la tu ban dung them nhieu man kich de chieu du bon luu manh cho de nay. Chung may cu vo vet thang tay, cong khai chuyen ngan<span style="mso-spacerun: yes"> </span>va neu dem het con cai va gia tai qua day chung toi se bao ve toi da. Cuoi cung cua chien tranh Lanh,<span style="mso-spacerun: yes"> </span>nhung thang Cong an cap da chay het qua tu ban sinh song, Tu Ban sau nhieu nam gia vo danh dam, danh mai danh hoai, CS can kiet va ngheo doi, buoc cuoi cung la DAU TU, khong can danh ma nuoc Cong tan ra nhu dong rac, do be thoi tha nhu dong cut.<o:p></o:p></span></span></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 0pt"><span style="font-family:Verdana;"><span style="color:#ffff66;"><span style="font-size:180%;">Chinh bon CS moi Tu ban den de <span style="mso-spacerun: yes"></span>cuu nguy cho nen kinh te thoi rua, chinh CS da da thuc ep nguoi dan trong cac nuoc lam thue cho Tu Ban, nguoi dan bi bon quan ly lua ep vao lam viec nhu NOLE cho cac ong chu Tu Ban voi bon Cong dau so. Truoc day nguoi dan lam ra moi ngay chi duoc 1 dola nay tu ban den bon Cong tinh muc Luong moi ngay duoc khoang 1.67 dola va mot bua com trua. That la tham thuong cho than phan mot nguoi dan duoi che do nha tu CS, phai noi rang so phan nguoi dan bi nguoc dai nhu trau bo, hoac khong bang mot con cho. <o:p></o:p></span></span></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 0pt"><span style="font-family:Verdana;font-size:180%;color:#ffff66;"><o:p></o:p></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 0pt"><b style="mso-bidi-font-weight: normal"><span style="font-family:Verdana;"><span style="color:#ffff66;"><span style="font-size:180%;">CHUNG TA HAY DAT CAU HOI: CHIEN TRANH LANH AI GAY RA, AI GIET AI, AI THANG AI, AI BIP AI?<o:p></o:p></span></span></span></b></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 0pt"><b style="mso-bidi-font-weight: normal"><span style="font-family:Verdana;"><span style="color:#ffff66;"><span style="font-size:180%;">CO THE TRA LOI LA TU BAN DA DUNG PHEP GAY ONG DAP LUNG ONG: CS GAY RA CHIEN TRANH LANH, CS GIET NGUOI TRONG NUOC, TU BAN THANG CS, TU BAN DA BIP CS DANH CHO KIET SUC, CS BIP DAN CS DE CUOP VA TRON CHAY SANG TU BAN<o:p></o:p></span></span></span></b></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 0pt"><b style="mso-bidi-font-weight: normal"><span style="font-family:Verdana;font-size:16;color:aqua;"><o:p></o:p></span></b></p>VIET NAM QUE HUONG TOIhttp://www.blogger.com/profile/17768876020603625276noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-7636341192878165251.post-43784711727979047822008-04-07T02:56:00.000-07:002008-09-03T02:59:32.580-07:00HOC THUYET MAC-LE day VC AN CUOP THEO PHAP LUAT<p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 0pt"><b style="mso-bidi-font-weight: normal"><span style="FONT-FAMILY: Verdana; mso-fareast-font-family: Dotumfont-family:Arial;font-size:14;color:#ffff99;" ><?xml:namespace prefix = o ns = "urn:schemas-microsoft-com:office:office" /><o:p></o:p></span></b></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 0pt"><span style="FONT-FAMILY: Verdana; mso-fareast-font-family: Dotumfont-family:Arial;font-size:14;color:#ffff99;" ><o:p></o:p></span></p><span style="FONT-FAMILY: Verdana; mso-fareast-font-family: Dotumfont-family:Arial;font-size:14;color:#ffff99;" ><span style="mso-spacerun: yes"></span><o:p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 0pt"><b style="mso-bidi-font-weight: normal"><u><span style="FONT-FAMILY: Verdana; mso-fareast-font-family: Dotumfont-family:Arial;font-size:14;color:#ccffcc;" ><o:p><span style="TEXT-DECORATION: none"></span></o:p></span></u></b></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 0pt"><b style="mso-bidi-font-weight: normal"><u><span style="FONT-FAMILY: Verdana; mso-fareast-font-family: Dotumfont-family:Arial;font-size:14;color:#ccffcc;" ><o:p><span style="TEXT-DECORATION: none"></span></o:p></span></u></b></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 0pt"><b style="mso-bidi-font-weight: normal"><u><span style="FONT-FAMILY: Verdana; mso-fareast-font-family: Dotumfont-family:Arial;font-size:14;color:#ccffcc;" ><o:p><span style="TEXT-DECORATION: none"></span></o:p></span></u></b></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 0pt"><b style="mso-bidi-font-weight: normal"><u><span style="FONT-FAMILY: Verdana; mso-fareast-font-family: Dotumfont-family:Arial;color:#ccffcc;" ><span style="font-size:180%;">Viet Cong tuyen truyen hoc thuyet Mac-Le:<o:p></o:p></span></span></u></b></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 0pt"><b style="mso-bidi-font-weight: normal"><u><span style="FONT-FAMILY: Verdana; mso-fareast-font-family: Dotumfont-family:Arial;color:#ccffcc;" ><span style="font-size:180%;">Nham de hu doa nguoi dan truoc khi ra tay cuop cua:<o:p></o:p></span></span></u></b></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 0pt"><span style="FONT-FAMILY: Verdana; mso-fareast-font-family: Dotumfont-family:Arial;color:#ccffcc;" ><span style="font-size:180%;">Truoc khi danh cuop ( hay con goi la tich thu, trung thu, tich bien, sung cong, quoc huu hoa,..) HCM va dong dang buoc moi gioi moi nganh deu phai hoc tap chu nghia cs, thao luan, nghien cuu…triet ly Mac Le-Ho Mao. Day la buoc dau de thay doi tu duy, thanh doi nep song thanh con nguoi CS, Dang Cong muon chuan bi tu tuong CS cho moi tang lop, tu oc dau tranh, quan diem tap the hoa, xoa het giai cap thong tri, biet <span style="mso-spacerun: yes"></span>phan biet giai cap ma Cong da phan loai truoc nhu la Tu San, tieu tu san, phong kien, loai ac on, loai boc lot, loai bam chan De quoc…<o:p></o:p></span></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 0pt"><span style="FONT-FAMILY: Verdana; mso-fareast-font-family: Dotumfont-family:Arial;color:#ccffcc;" ><span style="font-size:180%;">De hinh thanh mot so dong ap dao tang lop tri thuc va cac thanh phan kinh te, Dang Cong va HCM thuc ep tat ca can bo cong nhan, tho thuyen, du do tang lop thanh nien, ep buoc hoc sinh sinh vien…cong them hang nguoi<span style="mso-spacerun: yes"> </span>dang song bam vao xa hoi…de tao thanh mot tap doan hung hang, chi biet ho hao, gao thet ma khong biet la dang bi loi dung. HCM da tuyen truyen mot hoc thuyet sai trai, day toi loi la cuop cong suc nguoi khac nhung van tu hao la vi dat nuoc vi con nguoi. Khi ma so nguoi co vu trang kem theo du loai nguoi trong thon xom, a dua theo Dang Cong thi xa hoi khong con la xa hoi, nguoi manh giet nguoi yeu, cuop giut ngay truoc mat cung chang lam duoc gi vi ke nam phap luat chinh la ke co sung nhung bao nguoc va hung tan. Truoc khi danh cuop tai san tu nhan, tich thu va cuop ruong vuon, don dien, dat tu…Bon Cong buoc<span style="mso-spacerun: yes"> </span>cong nhan, sinh vien, hoc sinh..phai hoc tap li thuyet Cong San, moi nguoi phai tham gia cac phong trao pho truong, bieu duong, ho hao, dieu binh, tuan hanh, hoi hop, hoc tap thao luan,…nhung bien phap nay co chu truong <span style="mso-spacerun: yes"></span>ham doa va co lap mot so nguoi bi phan loai, bi phan biet thanh phan, nhung nguoi co tai san hoac it hoac nhieu, nhung gia dinh co cua tiem o sat mat duong cua nhung khu mua ban sam uat, co cong ty, hang xuong, hoac co ruong vuon… Roi den mot ngay, bong nhien di dau cung nghe ho het da dao, to cao chi diem, trong lang xom nhom hop lien mien, thanh nien vu trang, dan phong, cong an, bo doi day ray,…mot su uy hiem ghe ron nhu bong ma cong san, nhu ma ca rong hut mau phu xuong tung ngoi nha ..de roi cuoi cung Dang CS va HCM to chuc danh cuop tung nha, tung khu pho mot cach trang tron bi oi, ma chung cho rang khong bi pham mot toi ac gi ca. Nguoi dan mat tinh than, hoang hot lo so cho mang song, <span style="mso-spacerun: yes"></span>tuong lai…thoi thi chung lay cai gi cung de chung lay di, chung chuoi gi cung im lang, chung dua di day trong rung sau hoang lanh thi biet do la cach giet nguoi khong can guom dao cua CS.<o:p></o:p></span></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 0pt"><span style="FONT-FAMILY: Verdana; mso-fareast-font-family: Dotumfont-family:Arial;font-size:180%;color:#ccffcc;" ><o:p></o:p></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 0pt"><span style="FONT-FAMILY: Verdana; mso-fareast-font-family: Dotumfont-family:Arial;color:#ccffcc;" ><span style="font-size:180%;">Khap moi noi trong nuoc cs, ai ai cung deu nghe va thay nhung cau khau hieu rat la mat day, ( cho ma, xao lon):<o:p></o:p></span></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 0pt"><span style="FONT-FAMILY: Verdana; mso-fareast-font-family: Dotumfont-family:Arial;color:#ccffcc;" ><span style="mso-spacerun: yes"></span><span style="font-size:180%;">VO SAN TOAN THE GIOI, VO SAN DOAN KET LAI, XOA BO CHE DO TU HUU, XOA GIAI CAP, DANH DO GIAI CAP TU SAN MAI BAN, CHONG DE QUOC, TRI PHU DIA HAO DAO TAN GOC TROC TAN RE, DIET RA TRO, GIET LAM HON BO SOT…Day la bien phap dung dam dong de ham doa, dung bien phap sat mau tran ap tinh than. Bon Cong biet su dung thanh nien hang mau nhung con ngo ngan, quy tu nhung dam dong kho khao, chi biet ho to khau hieu, da so hang say ho het de khoi bi ke khac danh gia la con luong lu, tieu cuc, con chong Dang, chong nhan dan, so bi phe binh chi trich…Cuoi cung, bon giac Cong Phi con do to chuc danh cuop khap moi noi, tu nong thon den thanh thi..cuop mot cach de dang, khong co mot ai dam chong doi, nguoi dan so hai, so ngay nguoi hang xom cua minh, so bay thanh nien voi gay goc, dao bua, bon co do trong Phuong dang hang tiet vit. cung vi ngu dai, bi loi dung, bi lua bip (cho den chet)..the roi bon con do CS xong vao trong nha da chon truoc voi sung ong day du, cuoc xeng, xa beng,.. co ca may do tim kim loai, vang bac, kim cuong.. Theo kieu CS, chung muon lay gi thi lay, noi gi thi noi, buoc toi gi nhan dan cung nhan ca, co nguoi lai con viet giay XIN DANG HIEN TAI SAN, VA XIN DI HOC TAP CAI TAO DE KHONG BI TRUNG TRI, HAY GIET. <o:p></o:p></span></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 0pt"><span style="FONT-FAMILY: Verdana; mso-fareast-font-family: Dotumfont-family:Arial;color:#ccffcc;" ><span style="font-size:180%;">( Co mot quan Pho, tai thi xa Tam Ky tinh quang tin, ba chu quan ngheo, gia ca, lam an hang chuc nam, sam duoc 7 Cay vang La tri gia chung1500 dola, chon dau trong cai AM tho dang sau vuon, the ma ten DO MUOI da ra lenh danh tu san nam 78, bon tay sai, CA tu mien Bac vao ( dap pha, cuop ca mien Nam) da dap pha cai AM nho nay de cuop het tai san mo hoi nuoc mat cua mot thuong dan thuoc loai ngheo, <span style="mso-spacerun: yes"></span>chung da vu cao cho nhung noi lam an MUA BAN, tuong doi dat hang nhu la quan Pho Tam ki la TU SAN MAI BAN).<o:p></o:p></span></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 0pt"><span style="FONT-FAMILY: Verdana; mso-fareast-font-family: Dotumfont-family:Arial;color:#ccffcc;" ><span style="mso-spacerun: yes"></span><span style="font-size:180%;">Dac biet trong chuyen an cuop cua toan dan Mien Nam nam 78, so Vang duoc chuyen ra Bac, sau do lot vao tay Do Muoi mot cach bi mat, den nay han ta da chuyen sang Thuy sy 7 Tan Vang <span style="mso-spacerun: yes"></span>GOM MAU VA NUOC MAT CUA MUON DAN, nhung ten CONG AN <span style="mso-spacerun: yes"></span>DAC BIET voi nhiem vu chuyen Vang ra Bac va lam ho so gia cho thang thien heo Do Muoi, deu bi am sat chet tat ca, SO Vang ca Mien Nam sau khi danh cuop chi con lai 2 TAN, so hang hoa danh cuop chi giao nop 2 ty dola, vai nam sau Do Muoi ho hoan la kho hang 2 ty dola CHAY thieu het roi, 2 tan Vang de nop vao ngan sach tuyen truyen, cung do 3 ten dau so nam giu, vai nam sau cung khong canh ma bay.<o:p></o:p></span></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 0pt"><span style="FONT-FAMILY: Verdana; mso-fareast-font-family: Dotumfont-family:Arial;color:#ccffcc;" ><span style="font-size:180%;">Nhung nguoi bi chup mu la tu san deu bi dua vao nhung khu rung nui de lao dong den kiet luc, hoc tap kiem diem toi da, den noi lao luc lao tam ma chet, leo nui khieng cay, di go min,… Ve an uong thi chung tron that nhieu muoi, san, da,.. vao, vao com, gao de moc meo nam muoi nam…moi bua chi duoi 1 chen com, moi tuan tam mot lan duoi suoi trong 5 phut, buoc ngu duoi nen dat lanh gia, neu bi ai to cao chuyen gi thi bi biet giam trong phong 2x0.5 met, cao 1 met, co khi giam trong thung sat de ngoai troi..chan bi cum trong khoa chat bam mau ca 2 chan, co khi khoa ca 2 tay…phia duoi cum la de go muc nut ne..co hang ngan con REP , chung can suot dem, sinh ghe lo day minh, ngoai ra khong co lo tho ma phai hit tho qua lo khoa.<span style="mso-spacerun: yes"> </span>Bon Cong muon nhung nguoi nay phai bi giet de bit mieng the gian. <span style="mso-spacerun: yes"></span>Di nhien vao tu roi cung phai chet dan mon, chet tuc tuoi trong trong dau don boi bon vo lai, con do, cho de nay<o:p></o:p></span></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 0pt"><span style="FONT-FAMILY: Verdana; mso-fareast-font-family: Dotumfont-family:Arial;font-size:180%;color:#ccffcc;" ><o:p></o:p></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 0pt"><span style="FONT-FAMILY: Verdana; mso-fareast-font-family: Dotumfont-family:Arial;font-size:180%;color:#ccffcc;" ><o:p></o:p></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 0pt"><b style="mso-bidi-font-weight: normal"><u><span style="FONT-FAMILY: Verdana; mso-fareast-font-family: Dotumfont-family:Arial;color:#ccffcc;" ><span style="font-size:180%;">Nam tai san, nam nghe nghiep, nam kinh te …de sai bao dan de dang:<o:p></o:p></span></span></u></b></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 0pt"><span style="FONT-FAMILY: Verdana; mso-fareast-font-family: Dotumfont-family:Arial;color:#ccffcc;" ><span style="font-size:180%;">Tai sao Ho CM va bon tay sai quyet tam cuong doat tai sai toan dan, bat chap dao ly, liem si, danh du, cho den tinh nguoi. Vi nam duoc tai san roi thi dan chung tro nen vo san, song ngheo kho qua, noi gi cung vang da<o:p></o:p></span></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 0pt"><span style="FONT-FAMILY: Verdana; mso-fareast-font-family: Dotumfont-family:Arial;font-size:180%;color:#ccffcc;" ><o:p></o:p></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 0pt"><span style="FONT-FAMILY: Verdana; mso-fareast-font-family: Dotumfont-family:Arial;font-size:180%;color:#ccffcc;" ><o:p></o:p></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 0pt"><span style="FONT-FAMILY: Verdana; mso-fareast-font-family: Dotumfont-family:Arial;font-size:180%;color:#ccffcc;" ><o:p></o:p></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 0pt"><span style="FONT-FAMILY: Verdana; mso-fareast-font-family: Dotumfont-family:Arial;font-size:180%;color:#ccffcc;" ><o:p></o:p></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 0pt"><span style="FONT-FAMILY: Verdana; mso-fareast-font-family: Dotumfont-family:Arial;font-size:180%;color:#ccffcc;" ><o:p></o:p></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 0pt"><span style="FONT-FAMILY: Verdana; mso-fareast-font-family: Dotumfont-family:Arial;font-size:180%;color:#ccffcc;" ><o:p></o:p></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 0pt"><span style="font-size:180%;"><b style="mso-bidi-font-weight: normal"><u><span style="FONT-FAMILY: Verdana; mso-fareast-font-family: Dotumfont-family:Arial;color:#ccffcc;" >Tao dung mot hinh lanh tu CS la mot vi Thanh song :</span></u></b><b style="mso-bidi-font-weight: normal"><span style="FONT-FAMILY: Verdana; mso-fareast-font-family: Dotumfont-family:Arial;color:#ccffcc;" > Nham am rang Chu nghia Cong san khong the nao la xau xa duoc ( diem dang, bip bom)<o:p></o:p></span></b></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 0pt"><span style="FONT-FAMILY: Verdana; mso-fareast-font-family: Dotumfont-family:Arial;font-size:180%;color:#ccffcc;" ><o:p></o:p></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 0pt"><span style="FONT-FAMILY: Verdana; mso-fareast-font-family: Dotumfont-family:Arial;color:#ccffcc;" ><span style="font-size:180%;">Viet Cong Va cac nuoc CS khac tren the gioi deu su dung sach luoc chung la to bong ten dung dau Dang nhu mot vi Thanh, mot con nguoi vi dai den hoang tuong, tao dung hang ngan du kien gia tao, sua doi lich su, to bong tu tuong, dung kich gia, hinh anh doi tra, nhu la HO CM dap nuoc, di cay lua voi dan..tat ca deu khong co, gia doi. Trong thuc te thi nguoc lai. VD : HCM ngoi om, vuot ve tuoi cuoi voi ca chau nho, thuc ra HCM co con ma khong thua nhan, HCM nghe noi la co dao duc nhung lai thuong hay di am sat nhung nguoi an nghia, an nhan nhu Cu Huynh thuc khang, cu Pham Quynh, danh up quan cua cu Cuong De<o:p></o:p></span></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 0pt"><span style="FONT-FAMILY: Verdana; mso-fareast-font-family: Dotumfont-family:Arial;color:#ccffcc;" ><span style="font-size:180%;">, danh quan cua QDD, Ban cu Phan boi Chau cho Phap giet, cuop cong cu Phan chau Trinh, ban chet lanh dao de cuop ngoi lanh dao VNCMDMH, dau to anh nhan khang chien la ba Nam, lien ket de am sat nhung nguoi khai sang ton giao nhu Huynh phu So, Minh Dang quang, 6<span style="mso-spacerun: yes"> </span>chuc sac lanh dao Cao Dai, giet rat nhieu dong dang CS nhu LDT, DBM,dau doc Tong GM…chu ke den cac vu tham sat lon nhat the gioi nhu 6 ngan dan Ba Lang bi luu day, giet tu tu..3000 Cao dai Quang ngai, 3000 Hoa Hao<span style="mso-spacerun: yes"> </span>o Ba chuc, 300 ngan nong dan Bac. VC to diem HCM la co van hoa, chup hinh tuoi cuoi,.. the ma nguoc lai day! nhung cau noi cua HCM bat hoc sinh can bo hoc tap thi toan la nhung danh ngon cua Tau, han ta an cap hoi con lam gian diep cho Nga, luc thi sang Tau luc thi o <?xml:namespace prefix = st1 ns = "urn:schemas-microsoft-com:office:smarttags" /><st1:country-region st="on"><st1:place st="on">Thai.</st1:place></st1:country-region> Voi muc luong 100 do/thang han ta du da an choi, choi DI quanh nam, co khi lay luon mot co DI, gai lang choi ve lam vo, den noi gan day dai phat thanh Tau da truyen di khap the gioi cuoi doi HCM mot ten trum choi Gai o Tau, viec nau khong the dau ai duoc. VC moi day<span style="mso-spacerun: yes"> </span>da tang cho Tau 500 trieu dola de giau kin chuyen nay day, Tau lai doi them Truong sa, Hoang sa nua do,<span style="mso-spacerun: yes"> </span>thi ra HCM la mot thang an cap, mot thang dao van, doi tra ban thiu, mot thang me lon, ong trum choi di, ban nuoc giet dan.<o:p></o:p></span></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 0pt"><span style="FONT-FAMILY: Verdana; mso-fareast-font-family: Dotumfont-family:Arial;font-size:180%;color:#ccffcc;" ><o:p></o:p></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 0pt"><span style="FONT-FAMILY: Verdana; mso-fareast-font-family: Dotumfont-family:Arial;font-size:180%;color:#ccffcc;" ><o:p></o:p></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 0pt"><span style="font-size:180%;"><b style="mso-bidi-font-weight: normal"><u><span style="FONT-FAMILY: Verdana; mso-fareast-font-family: Dotumfont-family:Arial;color:#ccffcc;" >VC tuyen truyen nhoi so tuy theo hang tuoi, thanh phan:</span></u></b><span style="FONT-FAMILY: Verdana; mso-fareast-font-family: Dotumfont-family:Arial;color:#ccffcc;" > Mau giao, Nhi dong, thanh nien, trung nien, me chi, lao ong lao ba, ve huu, MAT TRAN TQ..hoc sinh tieu hoc, cap 2, cap 3, sinh vien, cong nhan vien, CA, Quan Doi, Mat vu, Mam non, Doi vien, Doan vien, Dang vien, <o:p></o:p></span></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 0pt"><span style="FONT-FAMILY: Verdana; mso-fareast-font-family: Dotumfont-family:Arial;font-size:180%;color:#ccffcc;" ><o:p></o:p></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 0pt"><span style="font-size:180%;"><b style="mso-bidi-font-weight: normal"><u><span style="FONT-FAMILY: Verdana; mso-fareast-font-family: Dotumfont-family:Arial;color:#ccffcc;" >Viet cong nam vung doi lot quoc gia</span></u></b><u><span style="FONT-FAMILY: Verdana; mso-fareast-font-family: Dotumfont-family:Arial;color:#ccffcc;" >:</span></u><span style="FONT-FAMILY: Verdana; mso-fareast-font-family: Dotumfont-family:Arial;color:#ccffcc;" ><span style="mso-spacerun: yes"> </span>VC gia danh nha bao, luat su, van nghe si, lam kinh te, thinh thoang lai ca ngoi CS, viet bao chuoi tu ban, hoac cho 2 thang Cong chuoi nhau, hoac xui bay 2 nguoi khac cong kich nhau, hoac to chuc khang chien dua nguoi vao noi VC chiem giu, sau do giao ho so cho VC, hoac khang chien gia tao, cho nguoi cua chung bi bat de hu doa ai muon khang chien chong Cong phi<o:p></o:p></span></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 0pt"><span style="FONT-FAMILY: Verdana; mso-fareast-font-family: Dotumfont-family:Arial;font-size:180%;color:#ccffcc;" ><o:p></o:p></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 0pt"><span style="font-size:180%;"><b style="mso-bidi-font-weight: normal"><u><span style="FONT-FAMILY: Verdana; mso-fareast-font-family: Dotumfont-family:Arial;color:#ccffcc;" >Viet Cong kim kep sat mau voi dan em, voi dong dang</span></u></b><span style="FONT-FAMILY: Verdana; mso-fareast-font-family: Dotumfont-family:Arial;color:#ccffcc;" >: Tan dung moi bien phai cai tri nhu phan chia to TAM TAM, TAM DAU CHE, mot nhom la 3 nguoi, vi he cu 2 nguoi ngoi lai la noi xau nguoi thu 3, cuoi cung ca 3 nguoi deu so lan nhau nhung mat ngoai thi gia vo than thien. Ve ban nganh cung co 3 Ban, 3 to, 3 nhom, moi co quan deu co 3 ban: ban thi dua, ban giam sat, ban theo doi, co ai khong dong tinh, phan doi, luong lu thi se duoc dua ra chi trich biem thao tru dap, va neu muon noi su that thi bi quy toi chong Dang. Da vao dang Cong roi thi kho ra, vi chung co nhieu cach thu tieu: giet cong khai, giet nhung gian canh tai nan, hoac giet bi mat roi den lam le tang binh thuong<o:p></o:p></span></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 0pt"><span style="FONT-FAMILY: Verdana; mso-fareast-font-family: Dotumfont-family:Arial;font-size:180%;color:#ccffcc;" ><o:p></o:p></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 0pt"><span style="FONT-FAMILY: Verdana; mso-fareast-font-family: Dotumfont-family:Arial;font-size:180%;color:#ccffcc;" ><o:p></o:p></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 0pt"><span style="font-size:180%;"><b style="mso-bidi-font-weight: normal"><u><span style="FONT-FAMILY: Verdana; mso-fareast-font-family: Dotumfont-family:Arial;color:#ccffcc;" >Nhung cum tu ghe ron cua HO CHI MINH</span></u></b><span style="FONT-FAMILY: Verdana; mso-fareast-font-family: Dotumfont-family:Arial;color:#ccffcc;" >: <o:p></o:p></span></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 0pt"><span style="font-size:180%;"><b style="mso-bidi-font-weight: normal"><i style="mso-bidi-font-style: normal"><span style="FONT-FAMILY: Verdana; mso-fareast-font-family: Dotumfont-family:Arial;color:#ccffcc;" >TAM CUNG – BAT RE XAU CHUOI</span></i></b><span style="FONT-FAMILY: Verdana; mso-fareast-font-family: Dotumfont-family:Arial;color:#ccffcc;" >: <o:p></o:p></span></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 0pt"><span style="FONT-FAMILY: Verdana; mso-fareast-font-family: Dotumfont-family:Arial;color:#ccffcc;" ><span style="font-size:180%;">Tam cung: Cung an-cung o – cung lam: HCM cho nguoi vao an o trong nha dan, cung an , cung o va cung lam viec voi ho, sau khi lay duoc cam tinh thi bat dau goi chuyen tim hieu dan tinh, moi moc nhung chuyen tham kin cung nhieu gia dinh chung quanh <o:p></o:p></span></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 0pt"><span style="FONT-FAMILY: Verdana; mso-fareast-font-family: Dotumfont-family:Arial;color:#ccffcc;" ><span style="font-size:180%;">Biet duoc nhieu chuyen, ten can bo nay tiep tuc su dung thu doan BAT RE XAU CHUOI: No len loi tu nha nay den nha khac de tim hieu them,<span style="mso-spacerun: yes"> </span>sau khi BAT RE, han su dung ngon don ac doc cua HCM la XAU CHUOI , NO ket hop, loi keo nhung nguoi nay voi nhau thanh mot chuoi toi ac, vua moi nhung chuyen cu, nho xe thanh to, khong noi thanh co, vu oan gia hoa cho nhieu gia dinh nong dan, loi keo nguoi trong nha, ba con ho hang, sui gia, vo chong di to cao, dau to nhau. Nhung tran dau to dien ra deu co su sap dat truoc, ai ai cung phai co mat, phai tham du, vua de chung kien, vua de tao thanh so dong theo Dang Cong het, chi con lai nhung nan nhan ma thoi, co con duong nao de chay thoat khong? . Bon Cong va HCM da tim cach tao ra mot so dong gom nhung nguoi nhe da, mot bon du thu du thuc luu manh voi cai ten la ban co nong( cho de). Nguoi nong dan bi dua ra dau to, ho biet chet oan ma khong noi duoc, ho biet bi danh, hanh ha dau don ma khong the tu tu de khoi dau the xac. Toi ac cua thang cho de Ho chi Minh khong the nao tha thu duoc<o:p></o:p></span></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 0pt"><span style="FONT-FAMILY: Verdana; mso-fareast-font-family: Dotumfont-family:Arial;font-size:180%;color:#ccffcc;" ><o:p></o:p></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 0pt"><span style="FONT-FAMILY: Verdana; mso-fareast-font-family: Dotumfont-family:Arial;font-size:180%;color:#ccffcc;" ><o:p></o:p></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 0pt"><span style="FONT-FAMILY: Verdana; mso-fareast-font-family: Dotumfont-family:Arial;font-size:180%;color:#ccffcc;" ><o:p></o:p></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 0pt"><b style="mso-bidi-font-weight: normal"><u><span style="FONT-FAMILY: Verdana; mso-fareast-font-family: Dotumfont-family:Arial;color:#ccffcc;" ><span style="font-size:180%;">Tai sao phong trao CS noi day hau nhu deu co mat o trong moi quoc qia<o:p></o:p></span></span></u></b></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 0pt"><span style="FONT-FAMILY: Verdana; mso-fareast-font-family: Dotumfont-family:Arial;color:#ccffcc;" ><span style="font-size:180%;">Nga Tau thang du vu khi sau khi chien tranh the gioi lan thu 2 cham dut, chung phai tim thi truong tieu thu. San xuat vu khi tai cac nuoc CS tao nen quyen luc toi da cho chung no, va cung thu gom tai san vao trong tay bon dau so mot cach de dang bang cach bien thu, an cap, tham nhung... Vay thi phai xui thang Cong o VN di danh nhau, thang nay vua ngu vua hen ha nen rat de bao, bao no giet nguoi Viet thi no giet ngay, bao no di dan Mien Cong no cung danh ngay thoi. <o:p></o:p></span></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 0pt"><span style="FONT-FAMILY: Verdana; mso-fareast-font-family: Dotumfont-family:Arial;color:#ccffcc;" ><span style="font-size:180%;">Cac nuoc tu ban thay CS lon manh, lan tran khap moi noi, ho nghi rang day cung la cach Tu ban ban vu khi, lam giau them de dang, thao nao VC cung nhan duoc tro giup cua tu ban. Ta thay o dau co CS thi cac nuoc chung quanh la cang mua vu khi cang nhieu, nhing chung quanh Dong nam A, nhin Nam Han, Nhat,<span style="mso-spacerun: yes"> </span>Dai loan, nhin Chau My La tinh, Chau Au, chau Phi, hang nghi ty do vao vu khi cung nho cong suc ngu xuan cua may ten CS, nho CS hu doa qua doi nen tu ban giau manh len day nhe.<o:p></o:p></span></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 0pt"><span style="FONT-FAMILY: Verdana; mso-fareast-font-family: Dotumfont-family:Arial;color:#ccffcc;" ><span style="font-size:180%;">That buon cuoi khi chien tranh lanh cham dut thi nhung ten dau so giau co trong may nuoc Cong lai thi nhau om Vang, Dola, kim cuong sang tu ban tron tranh, ( co ten co 30 ty dola) mat khac lai ban Cong lai moi tu ban de mua dat, mua nha cua bon Cong an cuop, moi lam lam chu hang xuong, cong ty..Nguoi dan xu CS mung ro nhu len thien dang vi nhan duoc tien cong that la cao :2dola/ngay. Sao ma den noi nay hoi giai cap cong nong, co gi dau vi ngay truoc bon Cong tra cho ½ do/ngay nhung phai lam gap doi.<o:p></o:p></span></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 0pt"><span style="FONT-FAMILY: Verdana; mso-fareast-font-family: Dotumfont-family:Arial;font-size:180%;color:#ccffcc;" ><o:p></o:p></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 0pt"><span style="FONT-FAMILY: Verdana; mso-fareast-font-family: Dotumfont-family:Arial;font-size:180%;color:#ccffcc;" ><o:p></o:p></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 0pt"><span style="FONT-FAMILY: Verdana; mso-fareast-font-family: Dotumfont-family:Arial;color:#ccffcc;" ><span style="font-size:180%;">NHUNG DE TAI DANG VIET<o:p></o:p></span></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 0pt"><b style="mso-bidi-font-weight: normal"><span style="FONT-FAMILY: Verdana; mso-fareast-font-family: Dotumfont-family:Arial;color:#ccffcc;" ><span style="font-size:180%;">Nhung bai ca thu han <o:p></o:p></span></span></b></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 0pt"><b style="mso-bidi-font-weight: normal"><span style="FONT-FAMILY: Verdana; mso-fareast-font-family: Dotumfont-family:Arial;font-size:180%;color:#ccffcc;" ><o:p></o:p></span></b></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 0pt"><b style="mso-bidi-font-weight: normal"><span style="FONT-FAMILY: Verdana; mso-fareast-font-family: Dotumfont-family:Arial;color:#ccffcc;" ><span style="font-size:180%;">Phan tich bai Quoc te Ca cua CS<o:p></o:p></span></span></b></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 0pt"><b style="mso-bidi-font-weight: normal"><span style="FONT-FAMILY: Verdana; mso-fareast-font-family: Dotumfont-family:Arial;font-size:180%;color:#ccffcc;" ><o:p></o:p></span></b></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 0pt"><span style="font-size:180%;"><b style="mso-bidi-font-weight: normal"><span style="FONT-FAMILY: Verdana; mso-fareast-font-family: Dotumfont-family:Arial;color:#ccffcc;" >Truong hoc cong san day tu tuong thu han cho hoc sinh</span></b><span style="FONT-FAMILY: Verdana; mso-fareast-font-family: Dotumfont-family:Arial;color:#ccffcc;" > <o:p></o:p></span></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 0pt"><b style="mso-bidi-font-weight: normal"><span style="FONT-FAMILY: Verdana; mso-fareast-font-family: Dotumfont-family:Arial;font-size:180%;color:#ccffcc;" ><o:p></o:p></span></b></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 0pt"><b style="mso-bidi-font-weight: normal"><span style="FONT-FAMILY: Verdana; mso-fareast-font-family: Dotumfont-family:Arial;color:#ccffcc;" ><span style="font-size:180%;">Ai giet ai trong cuoc chien nam bac <st1:country-region st="on"><st1:place st="on">Viet nam</st1:place></st1:country-region><o:p></o:p></span></span></b></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 0pt"><b style="mso-bidi-font-weight: normal"><span style="FONT-FAMILY: Verdana; mso-fareast-font-family: Dotumfont-family:Arial;font-size:180%;color:#ccffcc;" ><o:p></o:p></span></b></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 0pt"><b style="mso-bidi-font-weight: normal"><span style="FONT-FAMILY: Verdana; mso-fareast-font-family: Dotumfont-family:Arial;color:#ccffcc;" ><span style="font-size:180%;">Chien tranh lanh: Ai thang ai va ai bip ai<o:p></o:p></span></span></b></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 0pt"><b style="mso-bidi-font-weight: normal"><span style="FONT-FAMILY: Verdana; mso-fareast-font-family: Dotumfont-family:Arial;font-size:180%;color:#ccffcc;" ><o:p></o:p></span></b></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 0pt"><b style="mso-bidi-font-weight: normal"><span style="FONT-FAMILY: Verdana; mso-fareast-font-family: Dotumfont-family:Arial;color:#ccffcc;" ><span style="font-size:180%;">Nga Tau giup VC tuyen truyen long cam thu giua 2 mien Nam Bac<o:p></o:p></span></span></b></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 0pt"><b style="mso-bidi-font-weight: normal"><span style="FONT-FAMILY: Verdana; mso-fareast-font-family: Dotumfont-family:Arial;font-size:180%;color:#ccffcc;" ><o:p></o:p></span></b></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 0pt"><b style="mso-bidi-font-weight: normal"><span style="FONT-FAMILY: Verdana; mso-fareast-font-family: Dotumfont-family:Arial;color:#ccffcc;" ><span style="font-size:180%;">Ai cung muon an cap khi lam viec duoi che do CS<o:p></o:p></span></span></b></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 0pt"><b style="mso-bidi-font-weight: normal"><span style="FONT-FAMILY: Verdana; mso-fareast-font-family: Dotumfont-family:Arial;font-size:180%;color:#ccffcc;" ><o:p></o:p></span></b></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 0pt"><b style="mso-bidi-font-weight: normal"><span style="FONT-FAMILY: Verdana; mso-fareast-font-family: Dotumfont-family:Arial;color:#ccffcc;" ><span style="font-size:180%;">Lam lanh dao phai biet dut lot va thu tien cua dan em<o:p></o:p></span></span></b></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 0pt"><b style="mso-bidi-font-weight: normal"><span style="FONT-FAMILY: Verdana; mso-fareast-font-family: Dotumfont-family:Arial;font-size:180%;color:#ccffcc;" ><o:p></o:p></span></b></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 0pt"><b style="mso-bidi-font-weight: normal"><span style="FONT-FAMILY: Verdana; mso-fareast-font-family: Dotumfont-family:Arial;color:#ccffcc;" ><span style="font-size:180%;">Phai an chia ngan sanh, phan tram trong dau tu<o:p></o:p></span></span></b></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 0pt"><b style="mso-bidi-font-weight: normal"><span style="FONT-FAMILY: Verdana; mso-fareast-font-family: Dotumfont-family:Arial;font-size:180%;color:#ccffcc;" ><o:p></o:p></span></b></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 0pt"><b style="mso-bidi-font-weight: normal"><span style="FONT-FAMILY: Verdana; mso-fareast-font-family: Dotumfont-family:Arial;color:#ccffcc;" ><span style="font-size:180%;">Sach nhieu, cua quyen, ham doa la mot trong nhung chu truong cai tri sat mau cua bon Cong<o:p></o:p></span></span></b></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 0pt"><b style="mso-bidi-font-weight: normal"><span style="FONT-FAMILY: Verdana; mso-fareast-font-family: Dotumfont-family:Arial;font-size:180%;color:#ccffcc;" ><o:p></o:p></span></b></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 0pt"><b style="mso-bidi-font-weight: normal"><span style="FONT-FAMILY: Verdana; mso-fareast-font-family: Dotumfont-family:Arial;color:#ccffcc;" ><span style="font-size:180%;">VC khong nhan trach nhiem ve dao duc con nguoi suy thoai duoi che do CS<o:p></o:p></span></span></b></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 0pt"><b style="mso-bidi-font-weight: normal"><span style="FONT-FAMILY: Verdana; mso-fareast-font-family: Dotumfont-family:Arial;font-size:180%;color:#ccffcc;" ><o:p></o:p></span></b></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 0pt"><b style="mso-bidi-font-weight: normal"><span style="FONT-FAMILY: Verdana; mso-fareast-font-family: Dotumfont-family:Arial;color:#ccffcc;" ><span style="font-size:180%;">Tai sao cac nhan vien quan li khach san cua SC deu dua gai mai dam vao khach san<o:p></o:p></span></span></b></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 0pt"><b style="mso-bidi-font-weight: normal"><span style="FONT-FAMILY: Verdana; mso-fareast-font-family: Dotumfont-family:Arial;font-size:180%;color:#ccffcc;" ><o:p></o:p></span></b></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 0pt"><b style="mso-bidi-font-weight: normal"><span style="FONT-FAMILY: Verdana; mso-fareast-font-family: Dotumfont-family:Arial;color:#ccffcc;" ><span style="font-size:180%;">Cach giet nguoi trong dau to cua HCM:<span style="mso-spacerun: yes"> </span><o:p></o:p></span></span></b></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 0pt"><b style="mso-bidi-font-weight: normal"><span style="FONT-FAMILY: Verdana; mso-fareast-font-family: Dotumfont-family:Arial;color:#ccffcc;" ><span style="font-size:180%;">Nhet cut vao mieng nan nhan truoc khi giet, ban xong de xac giua dong trong, khong duoc dem chon<o:p></o:p></span></span></b></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 0pt"><b style="mso-bidi-font-weight: normal"><span style="FONT-FAMILY: Verdana; mso-fareast-font-family: Dotumfont-family:Arial;font-size:14;color:#ccffcc;" ><o:p></o:p></span></b></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 0pt"><b style="mso-bidi-font-weight: normal"><span style="FONT-FAMILY: Verdana; mso-fareast-font-family: Dotumfont-family:Arial;font-size:14;color:#ccffcc;" ><o:p></o:p></span></b></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 0pt"><span style="FONT-FAMILY: Verdana; mso-fareast-font-family: Dotumfont-family:Arial;font-size:14;color:#ccffcc;" ><o:p></o:p></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 0pt"><span style="FONT-FAMILY: Verdana; mso-fareast-font-family: Dotumfont-family:Arial;font-size:14;color:#ccffcc;" ><span style="mso-spacerun: yes"></span><o:p></o:p></span></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 0pt"><b style="mso-bidi-font-weight: normal"><u><span style="FONT-FAMILY: Verdana; mso-fareast-font-family: Dotumfont-family:Arial;font-size:14;color:#ccffcc;" ><o:p><span style="TEXT-DECORATION: none"></span></o:p></span></u></b></p><p class="MsoNormal" style="MARGIN: 0in 0in 0pt"></o:p></span></p>VIET NAM QUE HUONG TOIhttp://www.blogger.com/profile/17768876020603625276noreply@blogger.com0