Chủ Nhật, 19 tháng 7, 2009

BAY GIO PHAI TRA NO SUNG SAN CHO BON TAU CONG

VIET CONG DI GIAI PHONG HAY DI CUOP CUA GIET NGUOI
Theo nghĩa thông thường, “giải phóng” là cởi trói, là thay đổi hoàn cảnh sống theo hướng làm cho đời người trở nên êm ả hơn, hạnh phúc hơn. Tuy nhiên, sau 30-04-1975, người Việt Nam, đặc biệt là những người sanh sống tại miền Nam Việt Nam trước 1975 ngày càng tỏ ra hoài nghi về ý nghĩa của hai chữ “giải phóng” do chế độ Hà Nội xử dụng. Ngay giữa Saigon, đầu năm 1976, nhạc sĩ Trần Nhật Ngân là người đầu tiên đặt dấu hỏi về hồ sơ giải phóng. Dấu hỏi kia được gói ghém trong nhạc phẩm “Anh giải phóng tôi hay tôi giải phóng anh?”. Sau dấu hỏi của Trần Nhật Ngân, mọi người nhanh chóng nghiệm ra rằng: Đối với CSVN, “giải phóng” có nghĩa là cưỡng bách nhân dân phải từ bỏ thiên đàng để nhảy xuống hỏa ngục. Bây giờ, 34 năm đã trôi qua, chúng ta có thừa bình tĩnh để suy nghĩ về “cơn đau giải phóng”. Sau đây là những tình huống “bị” giải phóng điển hình:
Nạn nhân đầu tiên của hành động giải phóng lại chính là con đẻ của Bắc Kinh và Hà Nội. Đó là Mặt trận Giải phóng Miền nam Việt Nam. Thực vậy, sau khi chiếm được miền Nam Việt Nam, Hà Nội vội vàng “giải phóng” Mặt trận Giải phóng Miền nam Việt Nam ra khỏi sân khấu chính trị Việt Nam. Nói cách khác Hà Nội đã giải tán MTGPMNVN không trống, không kèn, không một lời cảm ơn, không một lễ hạ cờ. Kế tiếp màn giải-phóng-Mặt-trận-Giải-phóng là sự việc hàng loạt cán bộ Hà Nội được tung ra để chiếm giữ vị trí lãnh đạo, đồng thời cũng là vị trí tham ô từ trong Nam ra tới ngoài Bắc, từ xã ấp lên tới trung ương. Đó là ý nghĩa của tình đồng chí giữa Cộng sản Bắc và Cộng sản Nam.
Bây giờ chúng ta hãy xét tới mối “liên hệ giải phóng” giữa đảng CSVN và đất nước VN. Đất nước ở đây gồm nhân dân và lãnh thổ.
“Giải phóng” nhân dân Việt Nam
Sau 1975, đối với nhân dân Miền Nam Việt Nam, CSVN đánh các đòn giải phóng sau đây: giải phóng khỏi đời sống tự do để đưa vào những nhà tù khổ sai dưới mỹ danh “học tập cải tạo”. Giải phóng khỏi những ngôi nhà khang trang để “tự giác” tìm tới vùng kinh tế mới. Giải phóng khỏi quê hương thân yêu để trôi dạt tới những vùng đất tạm dung nằm rải rác khắp năm châu. Người Việt sinh sống tại hải ngoại khỏang 3 triệu người. Người Việt gục ngã trên đường vượt biên khoảng 500 ngàn người. Từ 1975 cho tới 1985 những người vượt biên bị gọi là phản quốc, bị đẩy ra biển trong chương trình vượt biên bán chính thức, vượt biên bất chấp những an toàn tối thiểu của những chuyến đi biển… Mặc dầu bị đối xử tàn tệ như vừa kể, lòng yêu gia đình, yêu quê hương hối thúc người Việt hải ngoại gửi tiền về trong nước ngày càng nhiều. Khối tiền to lớn kia đã che khuất hai chữ “phản quốc”. Người Việt hải ngoại được Hà Nội xảo trá tặng cho danh hiệu “những khúc ruột ngàn dặm của tổ quốc”. Rõ ràng là CSVN bất chấp liêm sỉ, sẵn sàng nói ngọt với người Việt hải ngoại chỉ để tiếp tục “giải phóng” túi tiền của những người trước kia đã bị CS ra tay hành hạ ở mức độ hiểm ác nhất. Đối với khúc-ruột-ngàn-dặm, “moi tiền” là mục đích chính. Đối với đồng bào sống ngay tại quốc nội CSVN đã đối xử ra sao?
Trước tiên, hãy nói tới “Mẹ chiến sĩ”. Mẹ ở đây là những người đã dày công bảo bọc, che chở, tiếp tế cơm gạo cho đám cán binh Việt Cộng trong thời kỳ CSVN phải sống chui rúc ở hốc núi, hầm đất cùng đủ loại địa đạo… Ngày nay đám “con chiến sĩ” đã có quyền lực đầy mình, tiền bạc đầy túi. Thay vì đền đáp công ơn trời biển của Mẹ, đám con tai quái kia lại quay ra “giải phóng” nhà, “giải phóng” ruộng vườn của Mẹ và của vô số đồng bào khác. Công việc giải phóng yêu ma kia đã tạo ra tại Việt Nam một giai cấp mới: giai cấp dân oan.
Giai cấp dân oan cộng với nông dân thất nghiệp phải chạy vào thành phố kiếm sống, cộng với giới phụ nữ chấp nhận “lấy chồng ngoại” để có được cơm áo cho gia đình, cộng với đông đảo nam nữ thanh niên sẵn sàng bán bắp thịt trong những chương trình “xuất khẩu lao nô”, cộng với khối quần chúng lớn lao không có cơ hội đi học, không có nghề nghiệp chuyên môn… Các bài toán cộng vừa nêu dẫn tới nhận định rằng: hầu hết lực lượng lao động của xã hội Việt Nam ngày nay chỉ có thể là lao động chân tay. Lao động kiểu này gọi là lao động “tay làm, hàm nhai”. Lợi tức của “lao động tay làm hàm nhai” gọi là lợi tức cơm chim. Thế nhưng, ngày cả cơm chim của nhân dân cùng khổ cũng bị CSVN tận tình “giải phóng”. Thực vậy, thời gian gần đây, dưới danh nghĩa cờ bauxite và cờ công tác xây dựng, CSVN vừa miễn thuế kinh doanh cho Trung Quốc, vừa mời gọi Trung Quốc tự do mang dân Tàu vào Việt Nam làm việc tại những nơi Trung Quốc trúng thầu, gọi là tụ điểm Tàu. Do được miễn thuế kinh doanh, Trung Quốc trở thành quốc gia độc quyền trúng thầu tại Việt Nam. Vì vậy, hiện nay từ Bắc chí Nam của lãnh thổ Việt Nam tràn ngập tụ điểm Tàu. Mỗi tụ điểm Tàu có trên dưới 2000 dân Tàu, hầu hết chuyên làm lao động tay chân. Đó là lý do giải thích tại sao giới lao động chân tay người Việt bị thất nghiệp và cơm chim của giới này đã bị người Tàu “giải phóng” với sự hỗ trợ tích cực của nhà cầm quyền Hà Nội.
Như vậy là dạ dày của người dân đã trống rỗng. Liệu chừng có hay không hiện tượng rằng: bên trên cái dạ dày lép kẹp là quả tim và bộ óc hừng hực chống Tàu? Chính vì lo sợ lòng căm thù Tàu trong mỗi người Việt dâng cao, ngày 03-04-2009, chính phủ CSVN đã ký ban hành công văn số 1992/VPCP-QHQT cho phép thành lập học viện Khổng Tử tại Việt Nam. Tư tưởng Khổng không có tiền đề triết học, không có qui luật triết học. Nó không là tư tưởng biện chứng. Nó bao gồm những bài học rời rạc của Khổng Tử. Những bài học rời rạc kia khi đi vào thực tiễn đời sống của người Trung Quốc, người đời nhìn ra ba trọng điểm:
- Trong gia đình: Người cha là nhân vật tối cao. Vợ con chỉ là những người phải tuyệt đối tuân lệnh gia trưởng. Trọng nam, khinh nữ là chân lý không cần chứng minh. Biết bao nhiêu tỷ phụ nữ đã chết vì “chân lý” quái ác vừa kể. Khổng Tử và đệ tử của Khổng không thể đưa ra bất kỳ lời giải thích nào.
- Trong xã hội quốc gia: Vua là tối cao. Vua nắm quyền sinh, sát toàn dân.
- Trong bang giao quốc tế: Trung Quốc là nước vua. Những quốc gia chung quanh chỉ là nước tôi. Trung Quốc có toàn quyền tùy nghi bành trướng.
Ba trọng điểm nêu trên khi đã được nhồi nhét vào tim óc Việt Nam sẽ biến người Việt trở thành những nô lệ của Trung Quốc trên căn bản tư tưởng rằng: Trung quốc là nước vua, Việt Nam là nước tôi. Vì vậy, không còn nghi ngờ gì nữa, CS Hà Nội đang làm tay sai cho Trung Quốc trong nỗ lực dùng viện Khổng Học để “giải phóng” TÍNH Việt và TÌNH Việt ra khỏi con người Việt Nam, thay vào đó là tâm lý an phận thủ thường. Thường ở đây là con người chấp nhận thân phận hèn mọn trước gia trưởng, trước Đức Vua và trước “Trung Quốc vĩ đại”.
“Giải phóng” lãnh thổ Việt Nam
Câu chuyện cơm chim bị giải phóng đi kèm với sự việc tính Việt và tình Việt bị giải phóng cho thấy: Con người Việt Nam đang bị CSVN ra sức giải phóng cả thể chất lẫn tinh thần. Từ đó, không cần tốn một viên đạn, người Tàu đã nghiễm nhiên tràn ngập lãnh thổ Việt Nam. Bây giờ hãy bàn tới biên giới và hải giới. Tất cả người Việt Nam đều còn nhớ năm 1999 và 2000 CSVN ký hiệp ước dâng đất, hiến biển cho Trung Quốc. Từ đó hai hiệp ước kia, đặc biệt là bản đồ biên giới Việt Hoa bị CSVN triệt để giấu kín. Ngày 29-03-2009, trong Lời Kêu gọi Bất tuân Dân sự, Đại Lão Hòa Thượng Thích Quảng Độ yêu cầu chế độ Hà Nội hãy khai trình với Liên Hiệp Quốc thềm lục địa Việt Nam đúng theo đòi hỏi của luật biển 1982. Lời kêu gọi vừa nói có hậu ý tố cáo CSVN không dám lập hồ sơ khai trình bởi lẽ hầu hết thềm lục địa Việt Nam đã bị CSVN cống hiến cho Trung Quốc. Sự việc bản đồ biên giới bị giấu kín đi kèm với sự việc CSVN không dám làm thủ tục khai trình thềm lục địa cho thấy CSVN đã “giải phóng” đất đai và biển cả Việt Nam ra khỏi khối tài sản của tổ tiên để dâng cúng cho Trung quốc.
Nói tóm lại, sau 34 năm cướp quyền cai trị đất nước, cái gọi là công lao giải phóng dân tộc của chế độ Hà Nội bao gồm các điểm trọng yếu sau đây:
1) Giải phóng ba triệu đồng bào ra khỏi quê hương để sống cuộc đời tị nạn khắp năm châu.
2) Giải phóng “cơm chim” của tuyệt đa số nhân dân lao động để mở đường cho nhiều vạn dân Tàu, lính Tàu vào Việt Nam kiếm sống bằng nghề lao động tay chân.
3) Giải phóng tính Việt, tình Việt ra khỏi tim óc VN để thay vào đó là tư tưởng Khổng với mục đích ngấm ngầm tạo hoàn cảnh tâm lý để người VN chấp nhận suy-nghĩ-kiểu-Tàu, sống-theo-trật-tự-Tàu. Trật tự gia trưởng. Trật tự trọng Nam, khinh Nữ. Trật tự vua tôi: vua là đảng, tôi là dân. Trật tự nước vua là Tàu, nước tôi là Việt.
4) Giải phóng đất Việt, biển Việt ra khỏi tầm tay Việt Nam để làm lễ vật triều cống cho vua Trung Quốc.
Bốn khối tội ác giải phóng kể trên đã biến đảng CSVN thành tên phản quốc lớn nhất trong thế giới của các loại phản quốc./.
30-4-75 NGAY 0 NHUC CUA TAY SAI VIET CONG
I.- Một ngày để nhớ:
Đối với tuyệt đại đa số người Việt trong các cộng đồng tị nạn CS ở hải ngoại, ngày 30 tháng tư hàng năm quả là một ngày đáng ghi nhớ -dĩ nhiên, ghi nhớ để buồn thương cho số phận của đất nước, của dân tộc… và của chính mình. Bởi vì, khởi đi từ ngày 30-4-1975, kẻ trước người sau, ước tính không dưới 3 triệu người dân Việt đã phải bỏ xứ sở ra đi, tán lạc khắp bốn phương trời hải ngoại. Đấy là chưa kể tới con số nhiều trăm ngàn đồng bào bất hạnh khác đã không tới được bến bờ tự do! Hoặc bỏ thây ở những khu rừng già Cao Miên, Thái Lan trong nỗ lực vượt thoát bằng đường bộ. Hoặc bị mất xác giữa lòng đại dương hay bị hải tặc bắt đi biệt tích trong những chuyến đi gian nan qua đường biển. Chẳng có thống kê nào cho biết số nạn nhân chính xác, nhưng chắc chắn là không dưới con số trăm ngàn!
Liệu có cần nói thêm đến hàng trăm ngàn đồng bào khác, thuộc đủ mọi thành phần quân-dân-cán-chính, kể cả tu sĩ thuộc mọi tôn giáo ở miền nam, sau Tháng-Tư-Đen đã bị đẩy vào các nhà tù trá hình mang danh trại “cải tạo” được dựng lên khắp nước. Kẻ 5, 7 năm, người 10, 15, 17 năm! Cũng có những nạn nhân cho đến hôm nay, sau hơn ba thập niên dài dặc, vẫn biệt tăm biệt tích! Họ đã chết hay vẫn còn bị đảng và nhà nước cộng sản đọa đày đâu đó!?
Và cũng từ cái ngày oan nghiệt ấy, bên cạnh những khu biệt thự sang trọng, những cao ốc khang trang mà chủ nhân ông là thiểu số lãnh tụ và những đại-gia-tư-bản-đỏ, trên 80 triệu đồng bào trong nước đang bị nhận chìm trong cảnh sống tối tăm, tủi nhục, thiếu cơm, thiếu áo, thiếu tự do, nhân quyền, nhân phẩm bị chà đạp. Trong số này còn có hàng chục ngàn thanh niên, thiếu nữ bị bán sức lao động cho ngoại bang!
Như thế, ngày 30 tháng tư dương lịch hàng năm quả là một ngày đáng để toàn dân Việt Nam, ở trong cũng như ngoài nước tưởng niệm, ghi nhớ. Không cần phải có một cố gắng nào, tự nó đã khắc sâu trong tâm tưởng mỗi nạn nhân của chế độ bạo tàn cộng sản, dù ở quốc nội hay đang sống kiếp lưu vong nơi xứ người.
Nhưng hẳn không chỉ là ghi nhớ và tưởng niệm.
II.- Một ngày để suy tư về Việt Nam hôm nay:
Một Việt Nam bên bờ vực thẳm
Kể từ 30-4-1975, toàn thể lãnh thổ Việt Nam bị đặt dưới sự lãnh đạo của một tập đoàn những kẻ bất nhân, bất tài, thất đức thuộc trung ương đảng bộ cộng sàn:
* Chúng đã nhân danh người vô sản để thu gom ruộng vườn, đất đai, nhà cửa, sản nghiệp của tư nhân, của các tổ chức, hiệp hội, tôn giáo nói là để chia cho người nghèo. Nhưng thực tế, chúng đã cùng nhau chia chác để sống một cuộc đời vương giả trên những mảnh đời tang thương, rách nát, đói cơm thiếu áo, mất tự do, nhân phẩm của hơn 80 triệu đồng bào ở quốc nội.
* Nhân danh người lao động cùng khổ để xây dựng đảng cộng sản dưới cái chiêu bài gọi là “Xã Hội Chủ Nghĩa”, ngày nay, 15 tay gộc trong Bắc Bộ Phủ đã công nhiên phản bội lại giới này khiến cho cả triệu công nhân đang bị vắt kiệt sức lao động bởi những chủ nhân ông ngoại quốc. Những cuộc đình công triền miên với sự tham dự của hàng chục, hàng trăm ngàn công nhân tại các khu chế xuất, các doanh nghiệp ở Sài Gòn, Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, bất chấp sự canh chừng của các công đoàn nhà nước, đã giúp cho công luận thấy được tình trạng khốn cùng của mấy chục triệu người dân lao động Việt Nam hôm nay.
* Để trả nợ quan thày Bắc Kinh trong những năm được viện trợ vũ khí, bom đạn để theo đuổi cuộc trường chinh xâm lược miền Nam, nướng cả triệu thanh niên vào cuộc chiến, gây nên cảnh chết chóc đau thương, tan cửa nát nhà cho biết bao gia đình nạn nhân ở miền nam vĩ tuyến 17, ngày nay chúng công khai bán đứng lãnh thổ và lãnh hải cho kẻ thù truyền kiếp của dân tộc:
1- Vẽ lại bản đồ ranh giới để chính thức dâng hiến Ải Nam Quan, Thác Bản Giốc và hàng chục ngàn cây số vuông đất đai của cha ông cho TC!
2- Nhắm mắt để cho Bắc Kinh công khai sáp nhập hai đảo Trường Sa và Trường Sa vào quận Tam Sa của chúng.
3- Bất chấp sự công phẫn của nhân dân, kể cả những thành phần trong đảng, Nguyễn Minh Triết và Nguyễn Tấn Dũng, với sự đồng tình của Nông Đức Mạnh, Nguyễn Phú Trọng, đã thỏa thuận cho hàng ngàn người Hoa tràn vào Tây Nguyên khai thác mỏ Bô-Xít, tác hại cho môi sinh, đe dọa sinh mạng của đồng bào địa phương, trong mưu toan mở đường cho mưu đồ bành trướng để Hán hóa đất nước ta!
Để khóa miệng đồng thời bịt mắt người dân, họ mở chiến dịch:
Một mặt huy động các lực lượng an ninh công an cảnh sát vũ trang rình mò, khủng bố, bắt bớ những người lên tiếng đối kháng, cho dẫu bằng những phương tiện ôn hòa, không vượt ra ngoài những quy định của công pháp quốc tế, kể cả cái gọi là Hiến Pháp của chế độ.
Mặt khác, họ dùng 600 tờ báo và cả chục đài phát thanh, phát hình để tuyên truyền, xuyên tạc, bóp méo sự thật. Kết quả là những con người kiên cường, bất khuất như các luật sư Nguyễn Văn Đài, Lê Thị Công Nhân, linh mục Nguyễn Văn Lý, cô Phạm Thanh Nghiên, nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa, nhà báo Nguyễn Văn Hải tức Blogger Điếu Cày cùng với nhiều tên tuổi khác đã bị đẩy vào nhà tù.
Hệ quả của vụ xử 8 giáo dân Thái Hà qua thái độ hành xử phi luật pháp của hệ thống pháp lý, báo chí truyền thông Hà Nội (dẫn tới việc các nạn nhân quyết định kháng cáo và khởi tố tờ Hà Nội Mới và kênh truyền hình VTV1 vì có những bài tường thuật xuyên tạc vẫn trong tình trạng nhập nhằng thiếu minh bạch) và vụ công an quận Gò Vập công khai dùng áp lực cưỡng chế luật sư Lê Trần Luật không cho ông lên phi cơ ra Hà Nội hôm 03-3-2009 cùng những hành vi khám xét bắt bớ nhân viên văn phòng của ông những ngày sau đó… cũng là những vấn để để mọi người phải suy tư nhân ngày 30-04 năm nay.
Một Việt Nam bất khuất.
Cho dù những khó khăn, cay nghiệt chất chồng, cho dù bị rình mò, bị đe họa, khủng bố, đàn áp, kể cả tù đày và sự an toàn sinh mạng, cao trào đấu tranh của quần chúng chống lại sự ác ở trong nước vẫn tiếp tục dâng cao và đang bước vào giai đoạn quyết liệt.
Từ giai đoạn đấu tranh tố giác những hành vi tán ác, độc tài phi dân chủ, xúc phạm nhân quyền, nhân phảm của đảng và nhà nước CS do những cá nhân, những nhóm nhỏ mang tính cục bộ chủ trương, trong thời gian gần đây nỗ lực đấu tranh của đồng bào quốc nội đã chuyển vào một tư thế mới mang tính tập thể và đồng bộ: tư thế quần chúng.
Khởi đầu là những đợt nông dân từ khắp các tỉnh miền Bắc lũ lượt kéo về vườn hoa Mai Xuân Thưởng ở Hà Nội và bà con thuộc các tỉnh hậu giang, tiền giáng ở miền Nam tìm vể văn phòng 2 Quốc Hội ở Sài Gòn để khiếu kiện đòi lại tài sản, đất đai đã bị đảng và nhà nước cướp trắng. Tiếp đến là những buổi cầu nguyện với sự hướng dẫn của đông đảo linh mục, tu sĩ, có lúc lên tới cả chục ngàn giáo dân ở Tòa Khâm Sứ cũ, ở giáo xứ Thái Hà, Hà Nội, ở Dòng Chúa Cứu Thế đường Kỳ Đồng Sài Gòn để đòi phục hồi công lý, nhân quyền và nhân phẩm VN. Và gần đây nhất là những cuộc biểu tình, rải truyền đơn, treo biểu ngữ tại những nơi công cộng ở Sài Gòn, Hà Nội và các tỉnh thị do tập thể thanh niên, sinh viên chủ trương với mục tiêu chống âm mưu xâm lăng lãnh thổ, lãnh hải của Trung Cộng, và qua đó gián tiếp cảnh cáo ý đồ bán nước, nhượng bộ kẻ thù phương bắc của đảng và nhà nước CS Việt Nam.
Đây là những hiện tượng cấm kỵ trong các chế độ cộng sản. Nhưng nó đã thực sự xảy ra dưới ánh sáng mặt trời, trước sự chứng kiến của công luận và đã được thu vào ống kính của truyền thông quốc tế. Nó xảy ra không chỉ một hay hai ngày, mà trong nhiều tháng ngày liên tiếp.
Giới trí thức, đặc biệt là giới luật sư đã bắt đầu có những động thái ngoạn mục. Khởi đâu là các luật sư Nguyễn Văn Đài, Lê Thị Công Nhân quyết liệt lên tiếng, chấp nhận ngồi tù, dứt khoát không khuất phục bạo quyền. Tiếp theo là tiếng nói của luật sư Trần Lâm và gần đây nhất là luật sư Lê Trần Luật và toàn thể các luật sư và nhân viên trong văn phòng Luật sư Pháp quyền của ông dấn thân bảo vệ những nhà dân chủ ở miền Bắc, công khai đứng ra bào chữa cho 8 giáo dân Thái Hà, can đảm đương đầu với mọi thủ đoạn đe noi, khủng bố trắng của đảng và nhà nước cộng sản xuyên qua những hành vi công an vũ trang áp giải ông ra khỏi phi trường Tân Sơn Nhất không cho lên phi cơ ra Hà Nội tiếp xúc với thân chủ, cũng như xuyên qua trường hợp bà Tạ Phong Tần và luật sư Nguyễn Quốc Đạt thuộc văn phòng ông cũng bị khủng bố… cho thấy những chỉ dấu lạc quan đã xuất hiện trong hàng ngũ những người am tường luật pháp, và nói chung giới trí thức ở quốc nội hiện nay. Trong khi nhà nước càng ngày càng tỏ ra khiếp nhược trước kẻ thù phương Bắc, cam tâm bán đất, dâng biển cho Bắc Kinh thì giới luật gia Việt Nam đã nối tiếp nhau đứng dậy theo gương nhà tranh đấu lừng danh của Trung quốc Cao Trí Thịnh, một luật sư đã hiến trọn cuộc đời cho lý tưởng bảo vệ công lý và sự thật cho đồng bào ông qua những lần tự nguyện bào chữa cho các tín đồ Pháp Luân Công và các tín đồ Kitô Giáo. Bất chấp những đòn thù của nhà cầm quyền cộng sản Bắc Kinh trong nhiều đợt bị giam giữ kể cả hiện nay ông đang bị hành hạ trong ngục tối, ông vẫn nêu cao khí tiết của người trí thức mang biểu tượng bậc đại trượng phu thời cổ là “uy vũ bất năng khuất”. Được biết để tránh những đòn thù tiểu nhân của cơ quan mật vụ Bắc Kinh, vợ con luật sư Cao Trí Thịnh đã được những bạn bè đồng chí hướng liều thân đưa trốn qua Thái Lan và hiện đã xin tị nạn chính trị tại Hoa Kỳ.
Điều quan trọng là con số những đảng viên CS và những viên chức nhà nước bỏ đảng, bỏ cơ quan cũng tăng theo cấp số nhân. Nguồn tin từ trong nước cho hay trong thời gian qua đã có tới trên 7000 cán bộ trung cấp từ trung ương tới địa phương đã tự ý rời bỏ nhiệm sở ra làm ăn với các công ty tư nhân do người ngoại quốc làm chủ. Cùng lúc nhiều ngàn viên chức có trách nhiệm gìn giữ an ninh tại nông thôn cũng đã bỏ về với ruộng vườn sau khi phát hiện đối tượng rình mò, theo dõi của họ không ai khác hơn là chính thân nhân, láng giềng của họ. Trong khi ấy, con số những đảng viên cộng sản thâm niên, kể cả những thành phần có địa vị trong cơ chế đảng và nhà nước công khai lên tiếng chống báng hoặc trả lại thẻ đảng cũng tiếp tục tăng lên. Tiêu biểu như cố giáo sư Hoàng Minh Chính hoặc cựu tướng Trần Độ. Những nhà thơ nhà văn như Chế Lan Viên, Nguyễn Khải từng một thời cúc cung tận tụy phục vụ đảng, nhưng khi chết đã để lại những bài thơ, những trang hồi ký vạch trần bộ mặt thật phản dân hại nước của chế độ đương quyền dưới sự chỉ đạo sắt máu của đảng CS. Câu “Sống không thể nói, Chết mới được ra lời” ứng vào trường hợp Chế Lan Viên và Nguyễn Khải không còn gì chính xác hơn.
Trong khi ấy, cũng không thiếu những người tuy còn đang phải sống trong lòng chế độ đã vượt qua được nỗi sợ hãi thường tình để can đảm cất lên tiếng nói trung thực của mình. Chúng tôi muốn nói tới những nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa ở Hải Phòng (hiện đang bị cộng sản bỏ tù), Vũ Cao Quận, Bùi Ngọc Tấn, Tạ Duy Anh. Ngoài ra, chúng tôi cũng muốn nói tới người nhạc sĩ lão thành từng có mặt ngay từ những ngày đầu khi cộng sản còn ngụy trang dưới nhãn hiệu Việt Minh là nhạc sĩ Tô Hải. Năm nay ông đã 83 tuổi. Hơn một thập niên trước, năm 1995 ông khởi sự viết tác phẩm có tên là “Hồi ký của một thằng hèn”. Sở dĩ ông đặt cho tác phẩm của ông một cái tên lạ thường như vậy là mỗi khi duyệt lại những trang đã viết ông vẫn thấy tuồng như ông chưa vượt ra khỏi được nỗi sợ hãi “hèn hạ” luôn ám ảnh mình khiến cho khi viết phải cân nhắc, dè dặt, không dám nói hết những điều mình nghĩ và những sự kiện mình đã kinh qua trong mấy chục năm sống trong đảng, nhất là viết xong đã lâu mà chưa đủ can đảm để gửi tới người đọc. Nhưng cuối cùng vào cuối năm 2008, bản thảo “Hồi ký của một thằng hèn” đã tới tay những người chủ trương tủ sách Tiếng Quê Hương. Tô Hải đích thân nhờ tủ sách ấn hành để giới thiệu đứa con tinh thần được viết nên bằng máu và nước mắt của ông đến với độc giả hải ngoại. Nếu không có gì trở ngại vào phút chót, tác phẩm hi hữu này sẽ đến tay người đọc vào cuối Tháng-Tư-Đen 2009.
Đọc tác phẩm của Tô Hải chúng ta sẽ nhận ra hai điều.
Thứ nhất: trong hàng ngũ những đảng viên kỳ cựu của đảng CSVN, theo nhận định của tác giả họ Tô, tuyệt đại đa số đã hoàn toàn chán đảng, chỉ chờ có dịp, nhất là khi loại bỏ được cái mặc cảm sợ hãi, là nhất loạt sẽ quay lưng lại với đảng.
Và thứ hai: qua chứng từ của tác giả cho thấy dù trong cảnh ngộ nào tinh thần bất khuất của dân tộc vẫn tiềm tàng trong huyết quản mọi người. Và đấy cũng là điều để chúng ta suy gẫm nhân 30-4 năm nay.
III.- Một ngày để quyết tâm
Buồn, đau, tiếc, hận là những tình cảm tự nhiên của chúng ta mỗi khi nghĩ về Tháng Tư Đen. Nhưng những tình cảm ấy chỉ có giá trị tích cực khi mỗi người biết chuyển hóa nó thành hành động, trong quyết tâm dứt bỏ chế độ tham tàn, bạo ngược cộng sản để xây dựng một nước Việt Nam mới, trong đó mọi người dân được sống trong một thể chế tự do, nhân quyền, nhân phẩm được bảo đảm.
Nhận định rằng cuộc đấu tranh chống cộng của toàn dân Việt Nam hôm nay đã chuyển vào một tư thế mới. Từ giai đoạn cá nhân, cục bộ, nó đã đi vào thế quần chúng. Cái ám ảnh về nỗi sợ hãi bị rình mò, khủng bố thuở nào đã giảm bớt. Những người Dân Oan bị tước đoạt ruộng vườn, tài sản, tín đồ các tôn giáo bị cấm cách hoặc bị xách nhiễu trong khi bày tỏ niềm tin đã dám công khai bày tỏ lập trường, quan điểm của mình. Họ trông chờ rất nhiều ở sự tiếp tay của các cộng đồng người Việt ở hải ngoại, không chỉ bằng những trợ giúp vật chất, bạc tiền mà còn là những yểm trở về mặt tinh thần cùng những nỗ lực vận động dư luận quốc tế.
Chúng ta vẫn cần có những cuộc biểu tình để bày tỏ lập trường dứt khoát với bạo quyền cộng sản và bọn tay sai. Nhưng, nếu chỉ có thế thì vẫn chưa đủ. Một cách thiết thực, từng người, từng gia đình phải là những chiến sĩ hậu phương để khi cần sẵn sàng đóng góp phương tiện gửi về tiếp trợ cho những cá nhân cũng như các phong trào đấu tranh ở quốc nội. Trong dịp Tháng-Tư-Đen năm nay, một số tổ chức có sáng kiến phát động chiến dịch dứt khoát không về cũng không gửi tiền bạc về trong nước. Đây là một hành động mang tính biểu tượng để nói cho đảng và nhà nước CS thấy ý chí kết đòan của tập thể người Việt chúng ta ở hả ngoại. Điều này không hề có ý nghĩa là ngăn cản mọi người không được về thăm quê hương và người thân.
Trong nỗ lực góp phần một cách cụ thể và thiết thực vào cuộc đấu tranh chung, về thăm quê hương, thân nhân, bằng hữu cũng là một cách để biểu lộ tinh thần của người quốc gia không chấp nhận chế độ cộng sản, miễn sao khi về chúng ta đừng bao giờ quên mình là người tị nạn, từng một thời là nạn nhân của chế độ đương quyền khiến phải bỏ xứ sở ra đi. Không ai đòi buộc những người về phải tham gia trực tiếp vào những cuộc đấu tranh chống chế độ, kể cả bằng lời nói có thể dẫn tới những hệ lụy cho sự an toàn cá nhân.
Với ý thức của người tị nạn cộng sản, trong khi xử kỷ tiếp vật, luôn giữ lối sống chừng mực, dứt khoát loại bỏ thái độ huênh hoang “áo gấm về làng” của những kẻ vô lương tâm, “ăn cháo đá bát”, cậy có tiền mang về để ăn chơi thỏa thích, chà đạp lên nỗi đau của đồng báo. Đừng bao giờ quên rằng mình đang là cư dân của các quốc gia tự do, dân chủ. Hãy sống xứng đáng với tư cách ấy. Hãy thẳng thắn cho thân nhân, bạn bè và mọi người biết mình đã và đang sống ra sao tại các quốc gia tạm dung. Chính từ đấy gián tiếp cho đồng bào quốc nối thấy được cuộc sống tù túng, bất hạnh mà họ đang phải đối diện từng ngày từng giờ trên quê hương.

VIET CONG VAN CHUA CHIU SAM HOI TOI AC GIET NGUOI VIET

VIET CONG GIET NGUOI VIET : NOI DA XAO THIT
- Trên truyền hình Pháp tối 15 tháng 5 năm 2007, trong buổi chuyển giao quyền lực cho ông Sarkozy, ngồi trước lá cờ Pháp và EU, vẻ mặt tươi sáng và nhẹ nhõm, cựu tổng thổng Jacques Chirac nói: “Một đất nước là một gia đình. Mối liên hệ đoàn kết chúng ta là tài sản quý giá nhất của chúng ta”.
- Tài sản quý giá nhất của CSVN là cái nồi da xáo thịt do “đỉnh cao trí tuệ” mafia CSVN phát minh.
- Nhiều người nói rằng Boris Yeltsin, người đánh đổ đảng Cộng Sản Đông Âu tại Nga đã chí lý khi chủ trương rằng "Cộng sản không thể sửa đổi, chúng chỉ đáng bị thay thế".
1- Không giống thiên hạ:
- Sau trận Gettysburg 1863, tổng thống Lincoln cúi đầu ngậm ngùi : “Những người lính Miền Nam hay Miền Bắc chết tại nơi đây đều chết cho đất nước Hoa Kỳ”. Kết thúc nội chiến Nam–Bắc Hoa Kỳ 1860–1865, binh sỹ bại trận Miền Nam Hoa Kỳ được thoải mái về quê, lại được cấp ngựa, cấp lương thực để có thể sinh sống và tái tạo cuộc đời. Các sỹ quan bại trận vẫn được cho giữ gươm.
- Năm 1989, bức tường Berlin của Đông Đức bị sụp đổ nhưng Tổng Bí thư Đông Đức Erik Honecker dù bị kết nhiều tội vẫn không bị đầy đọa. Chính phủ Tây Đức vẫn đổ ra nhiều ngàn tỷ đức mã nuôi dân Đông Đức và vực Đông Đức vượt thoát tình trạng nghèo và kém phát triển.
- Sau Thế giới Đại chiến II, Hoa Kỳ và Đồng minh chỉ đưa bọn thủ lĩnh Quốc Xã và Phát Xít ra tòa án Quốc tế, nhưng lại lập tức bỏ tiền viện trợ tái thiết cho hai kẻ cựu thù Nhật và Đức để chỉ trong vòng vài thập niên, hai nước này cũng giàu có không kém Hoa Kỳ.
- Hòa giải hòa hợp dân tộc là sự nghiệp thật là thiêng liêng và cao cả của người VN thật sự ái quốoc... nhưng csVN không thực tâm thi hành điều đó.
- Hiệp định Paris 1973 đã ghi: “Thực hiện hoà giải hòa hợp dân tộc, xóa bỏ thù hằn, cấm mọi hành động trả thù và phân biệt đối xử với những cá nhân hoặc tổ chức đã hợp tác với bên này hoặc bên kia” (đ.11)
- Vậy mà những người CS chiến thắng đã quản chế, giam giữ hàng trăm ngàn nhân viên hành chính, chuyên gia kỹ thuật, nhà khoa học xã hội, chính trị…, kể cả những người không hề cầm súng và gọi tất cả là ngụy quân, ngụy quyền. Có người chịu tù đầy đằng đẵng suốt 17 năm. Chẳng những thế, con cái, anh em, họ hàng của họ cũng bị kỳ thị, bị phân biệt đối xử, bị ngáng trở học hành, bị gây khó dễ trong mưu sinh. Hàng vạn người thuộc giới tư sản và gia đình “ngụy” bị vứt vạ vật lên các vùng kinh tế mới.
- Hàng loạt nhà tù trắng trợn, nhà tù trá hình được dựng lên để cùm kẹp, để cải tạo, để giáo dục, để chỉnh huấn… với đằng đẵng thời gian và muôn vàn phương thức đầy ải. Cho đến con cháu, họ hàng của những người tù, những “cải tạo viên” cũng bị phân biệt đối xử, bị tước bỏ bớt nhân quyền so với cái nhân quyền chung của dân Việt Nam vốn đã như “miếng da lừa”. Đến nỗi hàng vạn, hàng triệu người phải cắn môi, gạt nước mắt giã từ bè bạn, chia tay họ hàng, từ bỏ tài sản, rời bỏ quê hương đi biệt xứ.
- Ta có thể không bằng lòng với sự “giận cá chém thớt” khá tàn nhẫn, nhưng không thể không ngậm ngùi xót xa khi đọc những dòng này: “Toàn thắng rồi, tổ quốc xã hội chủ nghĩa quên phắt cam kết thực hiện hòa giải và hòa hợp dân tộc. Tổ quốc bỏ tù và hạ nhục hàng triệu người. Tổ quốc đánh tư sản, tống cổ con cái “ngụy quân ngụy quyền” ra khỏi trường học và lùa đi vùng kinh tế mới. Tổ quốc khống chế và hăm dọa bằng công an thành, công an tỉnh, công an huyện, công an phường. Biết dân chúng không còn chịu đựng được nữa và muốn bỏ nước ra đi, tổ quốc đứng ra tổ chức vượt biên bán chính thức để lấy tiền chuộc mạng những người muốn chạy trốn nanh vuốt của mình. Tổ quốc hành động như bọn giặc cướp. Đến khi bị dư luận thế giới lên án dữ dội vì hành động bỉ ổi này, tổ quốc dẹp luôn đợt vượt biên bán chính thức và dĩ nhiên không trả lại tiền. Tổ quốc đểu cáng và lật lọng. Đối với những người ra đi, tổ quốc là sóng gió, hải tặc, là cái chết trong bụng cá, may mắn hơn, là những ngày ê chề trong những trại tập trung trước khi tìm được một quê hương mới. Tổ quốc là một dĩ vãng cần quên đi”.
Thật là không giống ai !!!
2- Không giống cha ông :
- Ngay cả đối với bọn ngoại xâm như binh sỹ Nguyên Mông và bọn giặc Minh mà sau khi đánh bại chúng, các vua quan nhà Trần, nhà Lê vẫn cung cấp lương thực, thuyền bè cho họ trở về quê quán.
- Cái sự độc ác đã gây nên thảm cảnh và hận thù đằng đẵng sau cuộc chiến 1975 hoàn toàn không do nhân dân Việt Nam gây nên. Bản tính nhân dân ta vốn không như vậy. Cũng không phải tất cả những người cộng sản đều muốn như vậy. Tội ác ấy chỉ có thể gây nên bởi những lãnh tụ cộng sản kiểu như Lê Duẩn, Lê Đức Thọ…
3- Mafia CSVN phải chịu trách nhiệm đối với những con số ghê rợn thế này:
- Phía Bắc VN:
- 1.1 triệu liệt sĩ;
- 559.200 thương bệnh binh;
- hơn 300.000 người mất tích;
- hơn 2 triệu dân thường bị chết;
- hơn 2 triệu người lớn và trẻ em bị tàn tật vì bom đạn v.v....
- Phía Mỹ: 58.900 người cả nam lẫn nữ.
Đây phải là nỗi đau chung. Và, trước cái "đống xương vô định đã cao bằng đầu" ấy, trách nhiệm phải thuộc về tất cả những ai đã "gây cuộc binh đao" quá tàn khốc, quá lâu dài như vậy!
- Phía VNCH: Những con số thống kê trên còn khuyết hẳn một mảng rất lớn. Đó là con số những liệt sĩ, những thương bệnh binh đã từng ôm súng đứng trong đội quân của tổng thống Ngô Đình Diệm, thủ tướng Nguyễn Khánh, tổng thống Nguyễn Văn Thiệu.... Ai mạc mặt cho họ, ai gọi hồn cho họ??!!
Chỉ e rằng, còn rất nhiều người mẹ, người vợ, cũng có chồng, có con là người Việt Nam, cũng đã từng ra trận và từng ngã xuống trên mảnh đất này, nhưng chẳng những không được ai đoái hoài, mà còn bị đẩy sang một thế giới ghẻ lạnh. Họ vừa mang chung nỗi đau mất chồng mất con của người phụ nữ, lại còn chịu chồng chất thêm cái đau bội phần của sự phân biệt đối xử, sự kỳ thị, thậm chí hất hủi.
Ai giúp họ tìm kiếm hài cốt chồng con? Ai cưu mang, chăm sóc những ngày sống tàn sót lại và vong linh họ mai sau ?
4- Xã hội Việt Nam ngày nay :
Xã hội Việt Nam ngày nay tệ hơn nhiều dưới quyền Sài Gòn :
- tham nhũng tràn lan hơn,
- dân chúng nghèo khổ hơn,
- xã hội đồi trụy hơn,
- con người dối trá hơn,
- học đường nhiều tệ đoan hơn,
- bệnh viện thiếu thốn tồi tàn hơn,
- đường xá bụi bậm, nhầy nhụa hơn,
- tai nạn giao thông thảm khốc hơn.
Cho nên, chẳng có gì đáng kiêu hãnh cả!
5- Làm sao có thể quên quá khứ được! Cũng không thể gác lại quá khứ!
- Cho nên tôi rất mủi lòng nhưng không đồng ý với Ng. Gia Kiểng khi ông chua chát gắt gao : “Tổ quốc là một dĩ vãng cần quên đi”.
- Tôi cũng không đồng ý với những người lãnh đạo cộng sản khi kêu gọi: “Hãy gác lại quá khứ”.
- Làm sao có thể quên quá khứ được. Cũng không thể gác lại quá khứ. Có điều, chúng ta cần nhắc nhở nhau cái triết lý sống tích cực này: Quá khứ rất không đáng kể so với hiện tại, hiện tại càng không đáng kể so với tương lai.
6- Muốn có thể hòa giải, hoà hợp dân tộc
- Cơ sở cốt lõi của vấn đề phải là dân chủ, tự do, bình đẳng thật sự.
- Vì vậy, chừng nào còn chưa thiết lập được nền dân chủ tự do đúng nghĩa của nó ở VN thì chừng ấy vẫn chưa xóa được mặc cảm, thành kiến,... chưa có thể hòa giải, hoà hợp dân tộc được. Nếu chỉ bằng những khẩu hiệu suông hay bằng những chiến thuật kinh tế cụ thể thì sứ mạng hoà giải, hoà hợp và đoàn kết dân tộc sẽ khó hoàn thành.
- Cụ Nguyễn Hộ, một nhà lãnh đạo cộng sản kỳ cựu, khi bàn về hòa giải hòa hợp dân tộc đã tỏ ra thấu đáo khi viết : “Chuyên chế độc tài đã từng bị lịch sử lên án, hoàn toàn không hề là ước mơ, niềm hy vọng của nhân dân quần chúng và tất nhiên nó không có sức thuyết phục; nhưng tại sao lại dựa vào nó để thực hiện hòa giải, hoà hợp và đoàn kết dân tộc ?”
Hãy dứt khoát quẳng cái ách cộng sản đã trót quàng lên cổ dân tộc đi!
Cắt hẳn cái đuôi “định hướng xã hội chủ nghĩa” đi!